Trả lời:
Sau khi làm việc với cơ quan hữu quan, Quê Hương xin trả lời như sau:
1. Thông tư này được ban hành chủ yếu áp dụng cho đối tượng công dân Việt Nam được cơ quan Nhà nước cử đi công tác, làm việc, làm chuyên gia ở nước ngoài với thời hạn 3 nǎm trở lên, trong đó có cán bộ nhân viên của Đại sứ quán. Những đối tượng này được quyền nhập ô tô là tài sản di chuyển về nước (trước đây không được quyền nhập) khi kết thúc nhiệm kỳ công tác ở nước ngoài, nhưng phải chịu tất cả các loại thuế theo qui định hiện hành của pháp luật. Cụ thể:
- Thuế nhập khẩu theo thuế suất 100%. Cǎn cứ để tính thuế là 70% (bảy mươi phần trǎm) giá của xe ô tô mới cùng chủng loại (vì xe ô tô là hàng đã qua sử dụng).
- Thuế tiêu thụ đặc biệt với biểu thuế sau:
(Theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 149/2003/NĐ-CP ngày 04/12/2003)
STT
|
Loại
|
Thuế suất
|
1
|
từ 05 chỗ ngồi trở xuống
|
80%
|
2
|
từ 06 đến 15 chỗ ngồi
|
50%
|
3
|
từ 16 đến 24 chỗ ngồi
|
25%
|
Cǎn cứ để tính thuế này là giá xe khi tính thuế nhập khẩu.
Như vậy, các đối tượng trên được quyền nhập khẩu ô tô về nước theo Thông tư 27/2001 phải chịu 2 loại thuế: thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, tức là phải nộp thuế từ 130% đến 200% tùy theo chủng loại xe.
2. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi hồi hương vẫn áp dụng các qui định hiện hành. Cụ thể, ô tô của họ được mang về nước thuộc diện tài sản di chuyển, được miễn thuế nhập khẩu, nhưng phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (theo các Thông tư 172/1998/TT/BTC ngày 22/12/1998 của Bộ Tài chính và Thông tư số 4738 TCHQ-KTTT ngày 27/8/1999 của Tổng cục Hải quan - biểu thuế tiêu thụ đặc biệt và cǎn cứ để tính thuế như nêu ở điểm 1).
Ban Biên tập Tạp chí Quê Hương