(Tiếp theo kỳ trước)
Chương III
XÃ HỘI NƯỚC TÀU VỀ ĐỜI TAM ĐẠI VÀ ĐỜI NHÀ TẦN
1. Phong kiến
2. Quan chế
3. Pháp chế
4. Binh chế
5. Điền chế
6. Học hiệu
7. Học thuật
8. Phong tục
Khi Triệu Đà sang đánh An Dương Vương thì ở bên Tàu nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên làm vua, nước Tàu đang vào lúc đại loạn, phong tục, chính trị đều đổi khác cả. Vả lại Triệu Đà là người Tàu, làm quan nhà Tần, cho nên đến khi lấy được Âu Lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập làm một nước tự chủ, bèn đem chính trị, pháp luật nước Tàu sang cai trị đất Nam Việt(1). Vậy trước khi nói đến chuyện nhà Triệu, ta nên xem xét xã hội nước Tàu lúc bấy giờ là thế nào.
1. PHONG KIẾN
Nguyên về đời thái cổ, nước Tàu chia ra từng địa phương một, mỗi một địa phương thì có một người làm thủ lĩnh, lập thành một nước, gọi là nước chư hầu, phải triều cống nhà vua.
Số những nước chư hầu ấy thì mỗi đời một khác. Xem như khi vua Đại Vũ nhà Hạ, hội các nước chư hầu ở núi Đồ Sơn, kể có hàng vạn nước. Đến khi vua Vũ Vương nhà Chu đi đánh Trụ Vương nhà Ân, thì các nước chư hầu hội lại cả thảy được 800 nước.
Đánh xong nhà Ân, vua Vũ Vương phong cho hơn 70 người làm vua chư hầu, chia làm 5 bậc là: công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho người tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm, gọi là đại quốc; nước phong cho người tước bá thì rộng 70 dặm, gọi là trung quốc; nước phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm, gọi là tiểu quốc. Những nước không đủ 50 dặm, thì gọi là nước phụ dung.
2. QUAN CHẾ
Nhà Hạ đặt tam công, cửu khanh, 27 đại phu, 81 nguyên sĩ.
Nhà Ân đặt hai quan tướng, sáu quan thái là: thái tể, thái tông, thái sử, thái chúc, thái sĩ, thái bốc; năm quan là: tư đồ, tư mã, tư không, tư sĩ, tư khấu; sáu phủ: tư thể, tư mộc, tư thủy, tư thảo, tư khí, tư hòa; sáu công là: thổ công, kim công, thạch công, thủy công, thú công và thảo công.
Đến nhà Chu, ông Chu Công đặt sáu quan gọi là: thiên quan, địa quan, xuân quan, hạ quan, thu quan, đông quan. Mỗi một quan lại có 60 thuộc quan, cộng cả lại là 360 người.
Người làm đầu thiên quan, gọi là chủng thể, thống cả việc chính trị trong nước, việc thu nạp cả năm và mọi việc ở trong cung. Người làm đầu địa quan gọi là đại tư đồ giữ việc nông, việc thương, việc giáo dục và việc cảnh sát. Người làm đầu xuân quan gọi là đại tông bá, giữ việc tế, tự, triều, sính, hội đồng... Người làm đầu hạ quan gọi là đại tư mã, giữ việc binh mã và việc đi đánh dẹp. Người làm đầu thu quan, gọi là đại tư khấu, giữ việc dân, việc hình và việc kiện tụng. Người làm đầu đông quan gọi là đại tư không, giữ việc khuyến nông và việc thổ mộc v.v...
Trên lục quan lại đặt tam công là: thái sư, thái phó, thái bảo; tam cô là: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, để bàn xét việc trị nước yên dân, chứ không dự vào việc hành chính.
3. PHÁP CHẾ
Về đời thái cổ thì có năm hình, ngoài năm hình lại có phép đánh bằng roi da và tội lưu. Đến đời nhà Hạ, nhà Ân và nhà Chu thì lại đặt phép chặt chân, gọt đầu và tội đồ. Đến cuối đời nhà Chu thì đặt ra tội bêu đầu, xé thây, lăng trì, mổ, muối v.v...
4. BINH CHẾ
Binh chế nhà Hạ và nhà Ân thì không rõ, đến đời nhà Chu thì đặt 5 người làm một ngũ; 5 ngũ tức 25 người làm một lượng, 4 lượng tức 100 người làm một tốt, 5 tốt tức 500 người làm một lữ, 5 lữ tức 2500 người làm một sư, 5 sư tức 12.500 người làm một quân.
Quân thì đặt quan mạnh khang làm tướng, sư thì đặt quan trung đại phu làm súy, lữ thì đặt quan hạ đại phu làm súy, tốt thì đặt quan thượng sĩ làm trưởng, lượng thì đặt quan trung sĩ làm tư mã.
Thiên tử có 6 quân; còn những nước chư hầu, nước nào lớn thì có 3 quân, nước vừa có 2 quân, nước nhỏ 1 quân.
Trong nước chia ra làm tỉnh, mỗi tỉnh 8 nhà, 4 tỉnh làm một ấp 32 nhà, 4 ấp làm một khâu 128 nhà, 4 khâu làm một điện 512 nhà. Cứ mỗi điện phải chịu một cỗ binh xa, 4 con ngựa, 12 con bò, 3 người giáp sĩ, 72 người bộ tốt, 25 người để khiêng tải những đồ nặng. Cả thảy là 100 người.
5. ĐIỀN CHẾ
Về đời thái cổ thì không biết cách chia ruộng đất ra làm sao. Từ đời nhà Hạ trở đi thì chia 50 mẫu làm một gian, 10 gian là một tổ. Cứ 10 nhà cày một lô ruộng, hoa lợi được bao nhiêu chia làm 10 phần, nhà nước lấy một, gọi là phép cống.
Nhà Ân và nhà Chu thì dùng phép tỉnh điền, nghĩa là chia đất ra làm chín khu hình chữ tỉnh. Những khu ở chung quanh làm tư điền, khu ở giữa để làm công điền. Mỗi một tỉnh cho 8 nhà ở, đều phải xuất lực cày cấy công điền rồi nộp hoa lợi cho nhà vua.
Về đời nhà Ân thì mỗi tỉnh có 630 mẫu, mỗi nhà được 70 mẫu; phép đánh thuế gọi là phép trợ. Đến đời nhà Chu thì mỗi tỉnh có 900 mẫu, phép đánh thuế gọi là phép triệt.
Nhà Chu lại đặt ra lệ cứ 20 tuổi thì được 100 mẫu ruộng, đến 60 tuổi thì trả lại cho nhà nước. Nhà nào có con thứ nhì gọi là dư phu, đến 16 tuổi thì được lĩnh 25 mẫu ruộng.
Nhờ có phép chia ruộng như thế cho lên lúc bấy giờ không có người nào nghèo lắm mà cũng không có người giàu lắm. Về sau đến đời Chiến quốc, ngươi Lý Khôi là tướng nước Ngụy bắt dân hết sức làm ruộng, không định hạn như trước nữa; ngươi Thương Ưởng làm tướng nước Tần, bỏ phép tỉnh điền, mở thiên mạch, cho mọi người được tự tiện làm ruộng. Phép chia đất từ đó mới mất dần dần đi.
6. HỌC HIỆU
Nhà Hạ đặt nhà Đông tự làm đại học, nhà Tây tự làm tiểu học. Nhà Ân đặt nhà Hữu học làm đại học, nhà Tả học làm tiểu học, những nhà đại học, tiểu học ấy, là chỗ để tập bắn, để nuôi những người già cả và để tập văn nghệ.
Nhà Chu thì đặt nhà Tích Ung hoặc nhà Thành Quân làm nhà Đại Học, để cho con vua, con các quan và những người tuấn tú tuyển ở các thôn xã đến học; còn ở châu, ở đảng(2) thì đặt các nhà tiểu học gọi là Tự và nhà Tường để cho con dân gian vào học. Lại đặt lệ cứ từ 8 đến 14 tuổi làm niên hạn cho tiểu học, từ 15 đến 20 tuổi làm niên hạn cho đại học. Đại học thì dạy lễ, nhạc, thi, thư; tiểu học thì dạy cách kính trên nhường dưới và cách ứng đối v.v...
7. HỌC THUẬT
Học thuật ở nước Tàu về đời nhà Chu đã thịnh lắm, cho nên đến đời Xuân Thu, có nhiều học giả như là: Lão tử bàn đạo; Khổng tử bàn hiếu, đễ, nhân, nghĩa; Mặc Địch bàn lẽ kiêm ái, nên chuộng sự tiết kiệm bỏ âm nhạc; Dương Chu thì bàn lẽ vị kỷ, nên tự trọng thân mình và không chịu thiệt mình để lợi người.
Lại có những pháp gia như Thân Bất Hại, Hàn Phi bàn việc trị thiên hạ thì chỉ nên dùng pháp luật, chứ không nên dùng nhân nghĩa. Còn những người như Quỉ Cốc, Thi Giảo, Điền Biền v.v... mổi người đều xướng một học thuyết để dạy người đương thời.
8. PHONG TỤC
Nước Tàu lấy sự cày ruộng làm gốc, nhưng mà việc nuôi tằm, dệt lụa, việc họp chợ, việc buôn bán cũng phát đạt cả.
Dân trong nước chia ra làm bốn thứ: sĩ, nông, công, thương, nhưng mà con người làm quan lại làm quan, con người làm ruộng cứ làm ruộng, chứ con người làm ruộng không được làm quan. Tuy vậy, đến đời Xuân Thu những người thứ dân lên làm tướng văn tướng võ cũng nhiều.
Ở trong gia đình thì già trẻ trên dưới phân biệt nghiêm lắm. Con phải theo cha, vợ phải theo chồng, con trai con gái từ 7 tuổi trở đi, là không được ăn một mâm, nằm một chiếu nữa. Con trai 30 tuổi mới lấy vợ, gái 20 tuổi mới lấy chồng mà hai người cùng họ không được lấy nhau.
Nước Tàu về đời Tam đại cũng sùng sự tế tự lắm. Thường cúng tế thiên, địa, nhật, nguyệt, sơn, xuyên, lâm, trạch. Nhà vua lập đàn Nam Giao để tế Thượng đế. Lại có nhà Xã Tắc để tế Thổ Thần và Hậu Tắc. Còn sự thờ phụng tổ tiên thì từ vua cho đến thứ dân đều lấy làm một việc rất quan trọng trong đời người.
Xem như thế, thì xã hội nước Tàu về đời Tam Đại đã văn minh lắm, nhưng sau đến cuối đời nhà Chu, vì nhà vua suy nhược, cho nên chư hầu, người xưng hầu, kẻ xưng vương rồi tranh nhau, đánh nhau như Ngũ Bá đời Xuân Thu, Thất Hùng đời Chiến Quốc, làm cho trăm họ lầm than khổ sở.
Sau nhà Tần thống nhất được thiên hạ, mới bỏ lệ phong kiến, lập ra quận huyện; bỏ phép tỉnh điền, lập thiên mạch; cấm Nho học, đốt sách vở, việc chính trị thì cốt dùng pháp luật, để lấy quyền lực mà áp chế.
Đang khi phong tục nước Tàu biến cải như thế, thì Triệu Đà lập ra nước Nam Việt(3), đem văn minh nước Tàu sang truyền bá ở phương nam, cho nên từ đó về sau người nước mình đều nhiễm cái văn minh ấy.
_______________________
Chú thích:
(1) Xin đừng lầm nước Nam Việt ngày xưa với Nam Việt của nước Việt Nam hiện nay
(2) Cứ 12.500 nhà một châu, và 500 nhà làm một đảng thì có nhà Tự, ở đảng thì có nhà Tường.
(3) Xin đừng lầm nước Nam Việt ngày xưa với Nam Việt của nước Việt Nam hiện nay
(Xem tiếp kỳ sau)