07/03/2005 08:06:06 AM
Nước Việt Nam

1. QUỐC HIỆU

Nước Việt Nam ta về đời Hồng Bàng (2879-258 tr. Tây lịch) gọi là Văn Lang, đời Thục An Dương Vương (257-207 tr. Tây lịch?) thì gọi là Âu Lạc. Đến nhà Tần (246-206 tr. Tây lịch) lược định phía nam thì đặt làm Tượng quận, sau nhà Hán (202 tr. Tây lịch - 220 sau Tây lịch) dứt nhà Triệu, chia đất Tượng quận ra làm ba quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đến cuối nhà Đông Hán, vua Hiến đế đổi Giao Chỉ làm GIao Châu. Nhà Đường (618-907) lại đặt là An Nam Đô hộ phủ.

Từ khi nhà Đinh (968-980) dẹp xong loạn Thập nhị Sứ quân, lập nên một nước tự chủ, đổi quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Vua Lý Thánh Tông đổi lại là Đại Việt, đến đời vua Lý Anh Tông, nhà Tống bên Tàu mới công nhận là An Nam quốc.

Đến đời vua Gia Long thống nhất được cả Nam Bắc (1802), lấy lẽ rằng Nam là An Nam, Việt là Việt Thường mới đặt quốc hiệu là Việt Nam. Vua Minh Mệnh lại cải làm Đại Nam.

Quốc hiệu nước ta đã thay đổi nhiều lần, tuy rằng ngày nay ta vẫn theo thói quen dùng hai chữ An Nam, nhưng vì hai chữ ấy có ngụ ý phải thần phục nước Tàu, vậy thì ta nên nhất định lấy tên Việt Nam mà gọi nước nhà.

2. VỊ TRÍ VÀ DIỆN TÍCH

Nước Việt Nam ở về phía đông nam châu Á Tế Á, hẹp bề ngang, dài bề dọc, hình cong như chữ S, trên phía Bắc và dưới phía Nam phình rộng ra, khúc giữa miền Trung thì eo hẹp lại.

Đông và Nam giáp bể Đông (BT); Tây giáp Ai Lao và Cao Miên; Bắc giáp nước Tàu, liền với tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam.

Diện tích cả nước rộng chừng độ 312.000 ki lô mét vuông chia ra như sau này:

Bắc Việt: 105.000 km2

Trung Việt: 150.000 km2

Nam Việt: 57.000 km2

3. ĐỊA THẾ

 Nước ta hiện nay chia làm ba cõi: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Đất Bắc Việt có sông Hồng Hà (tức sông Nhị Hà) và sông Thái Bình. Mạn trên gọi là Thượng du lắm rừng nhiều núi, ít người ở. Mạn dưới gọi là Trung châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông lắm.

Đất Trung Việt thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Trường Sơn chạy dọc từ Bắc Việt vào gần đến Nam Việt, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi.

Đất Nam Việt thì ở vào khúc dưới sông Mê Kông (tức là sông Cửu Long), lại có sông Đồng Nai chảy ở mé trên, cho nên đất tốt, ruộng nhiều, dân gian trù phú và dễ làm ăn hơn cả.

4. CHỦNG LOẠI

Người Việt Nam có nhiều dân tộc ở, như là ở về miền thượng du Bắc Việt thì có dân Thái (tức là Thổ), Mường, Mán, Mèo; ở về miền rừng núi Trung Việt thì có dân Mọi và Chàm (tức là Hời); ở về miền Nam Việt thì có dân Mọi, Chàm, Chà Và và Khách, vân vân. Những dân ấy ở trong ba nơi tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt Nam ở hết cả.

Số người Việt Nam ở trong ba nơi có thể chia ra như sau này:

Bắc Việt: 8.700.000 người

Trung Việt: 5.650.000 người

Nam Việt: 4.616.000 người(1)

Cả thảy cộng lại được độ chừng non 19 triệu người.

5. GỐC TÍCH

Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía đông nam, lập ra nước Việt Nam  ta bây giờ, còn người Thái thì theo sông Mê Kông xuống, lập ra nước Tiêm La (tức là Thái Lan) và các nước Lào.

Lại có nhiều người Tàu và người Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau giống Hán tộc (tức là người Tàu bây giờ) ở phía tây bắc đến đánh đuổi người Tam Miêu đi, chiếm giữ vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở miền Việt Nam ta bây giờ.

Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi, chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới gọi là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu.

Dẫu người mình thuộc về chủng loại nào mặc lòng, về sau người Tàu sang cai trị hàng hơn một nghìn năm, lại có khi đem sang nước ta hơn bốn mươi vạn binh, chắc là nòi giống cũ của mình cũng đã lai đi nhiều rồi, mới thành ra người Việt Nam ngày nay.

6. NGƯỜI VIỆT NAM

Người Việt Nam thuộc về loại da vàng, nhưng mà người nào phải đi làm lụng dầm mưa dãi nắng lắm, thì nước da ngăm ngăm đen, người nào nhàn nhạ phong lưu, ở trong nhà luôn, thì nước da trăng trắng như màu ngà cũ.

Trạc người thì thấp nhỏ hơn người Tàu, mà lăn lẳn con người, chứ không to béo. Mặt thì xương xương, trông hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thưa mà ít, tóc thì nhiều và dài, đen và hơi cứng. Dáng điệu đi đứng thì nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc chắn.

Áo quần thì dài rộng, đàn ông thì búi tóc và quấn khăn vành rây, áo mặc dài quá đầu gối, tay áo thì chật, ống quần thì rộng. Đàn bà ở Bắc Việt và phía bắc Trung Việt thì đội khăn, mà ở chỗ thành thị thì mặc quần, còn ở nhà quê thì hay mặc váy. Ở phía nam Trung Việt và Nam Việt thì đàn bà mặc quần cả, và búi tóc, chứ không đội khăn bao giờ.

Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát và muốn sự hoà bình, nhưng mà đã đi ra trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Đàn bà thì hay làm lụng và đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các cái đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần, kiệm.

Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói một thứ tiếng(2)  cùng giữ một kỷ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu nước đến cuối nước.

7. SỰ MỞ MANG BỜ CÕI

Người nòi giống Việt Nam ta mỗi ngày một nẩy nở ra nhiều, mà ở phía bắc thì đã có nước Tàu cường thịnh, phía tây thì lắm núi nhiều rừng, đường đi lại không tiện, cho nên mới theo bờ bể lần xuống phía nam, mở ra bờ cõi bây giờ.

8. LỊCH SỬ VIỆT NAM

Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ đươc cái tính đặc biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm.

Vậy ghi chép những cơ hội gian truân, những sự biến cố của nước mình đã trải qua, và kể những công việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều biết, ấy là sách Việt Nam sử.

Nay ta nên theo từng thời đại mà chia sách Việt Nam sử  ra 5 quyển để cho tiện sự kê cứu:

Quyển I: Thượng cổ thời đại.

Quyển II: Bắc thuộc thời đại.

Quyển III: Tự chủ thời đại.

Quyển IV: Nam bắc phân tranh thời đại.

Quyển V: Cận kim thời đại.

______________________

Chú thích:

(1)  Số này là theo sách Địa dư của ông H. Russier (1939) chép lại chứ không chắc đã đúng số nhất định của người mình.

(2) Tuy rằng mỗi nơi có một ít tiếng thổ âm riêng và cái giọng nói nặng nhẹ khác nhau, nhưng đại để thì vẫn là một thứ tiếng mà thôi.

(Xem tiếp kỳ sau)

 Ý kiến của bạn |   Gửi tin qua E-mail |   Bản để in
Các tin khác

Video

Dấu ấn Việt Nam: Bác Hồ và sự trong sáng của tiếng Việt | VTV4
Thắng cảnh bạn thích nhất?
Vịnh Hạ Long
Phong Nha - kẻ Bàng
Cát Bà
Đảo Phú Quốc
Fanxipang