21/11/2009 06:00:00 AM
Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài: 50 năm - Một Chặng Đường Lịch Sử Vẻ Vang

50 năm là chặng đường dài từ Ban Việt kiều Trung ương đến Uỷ ban Nhà nước về NVNONN. Khởi đầu là một cơ quan mang tính liên ngành, với biên chế chính thức hạn chế như một tổ chuyên viên trong Văn phòng Chính phủ (năm 1983, Ban Việt kiều Trung ương chỉ có 24 người), đến nay, Uỷ ban đã có 8 đơn vị chức năng, trong đó có 5 đơn vị hành chính và 3 đơn vị sự nghiệp với tổng số cán bộ, nhân viên hơn 80 người. Tạp chí Quê Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Sơn - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban.


Bà con kiều bào và các cháu thiếu nhi Việt Nam ở Thái Lan về nước chuyến
đầu tiên đến thăm và chúc Tết Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch, ngày 29/1/1960

Ngay từ những ngày đầu của nhà nước cách mạng non trẻ, từ năm 1945 công tác vận động kiều bào đã có được vị trí xứng đáng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Hình thành từ những năm nước mất, nhà tan khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, lại thêm thân phận xa xứ, nên cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn được các bậc tiền bối cách mạng coi là mảnh đất tốt để truyền bá các tư tưởng yêu nước và gây dựng cơ sở cách mạng. Thực tiễn lịch sử cho thấy công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài luôn gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu thường xuyên quan tâm đặc biệt tới công tác vận động kiều bào, xây dựng cơ sở ở ngoài nước nhằm phục vụ cho mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chính Người đã thành lập Nhóm người An Nam yêu nước (năm 1919), tiền thân của Phong trào yêu nước và Hội người Việt Nam tại Pháp ngày nay; thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Quảng Châu, Trung Quốc (năm 1924), có chi hội đầu tiên ở Phi-chít, Thái Lan (năm 1926) và từ năm 1928 Người đến Thái Lan trực tiếp lãnh đạo và tổ chức phong trào Việt kiều yêu nước… Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là bước ngoặt trong công tác vận động kiều bào. Trung Quốc, Lào, Căm-pu-chia, Thái Lan và Pháp - những nơi có đông người Việt sinh sống - trở thành các địa bàn hoạt động và cơ sở cách mạng quan trọng ở ngoài nước. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, công tác vận động kiều bào còn gắn cả với công cuộc vận động quốc tế ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Ngay khi nước nhà vừa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi nhiều thư, điện cho kiều bào báo tin nước nhà độc lập và kêu gọi kiều bào hãy phát huy các truyền thống tốt đẹp của con Hồng, cháu Lạc, luôn hướng về quê hương, đất nước. Đầu năm 1946, trong thư chúc Tết kiều bào, Người đã đánh giá cao tấm lòng của kiều bào tuy ở nơi đất khách, quê người, nhưng lòng luôn hướng về Tổ quốc, đồng thời khẳng định: “Tổ quốc và Chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương các đồng bào, như bố mẹ thương nhớ các người con đi vắng. Đó là nhân tâm thiên lý, đó là tình nghĩa một nhà”. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp kéo dài suốt 9 năm (1946-1954), đồng bào ta ở nước ngoài đã phát huy tinh thần yêu nước, tham gia kháng chiến theo nhiều hình thức khác nhau. Tại Thái Lan, phong trào yêu nước của Tổng Hội Việt kiều cứu quốc hoạt động rất mạnh, phối hợp chặt chẽ với trong nước. Hơn 6.000 Việt kiều Thái Lan trực tiếp tham gia kháng chiến trong lực lượng vũ trang tại mặt trận Lào.

Một trong những mong muốn của kiều bào là được trở về quê hương, tham gia xây dựng đất nước. Vì vậy, năm 1954 sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, để đáp ứng nguyện vọng của kiều bào, ngày 23/10/1959, Hội đồng Chính phủ đã họp và ra Nghị quyết về việc đón tiếp Việt kiều ở Thái Lan, Tân Đảo, Tân Thế giới về nước. Nghị quyết nhấn mạnh ý nghĩa to lớn của việc đón tiếp kiều bào hồi hương một cách chu đáo, đặc biệt là giải quyết công ăn việc làm ổn định đời sống cho kiều bào. Ngày 23/11/1959, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 416/TTg thành lập Ban Việt kiều Trung ương, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác đối với kiều bào. Đây là lần đầu tiên một cơ quan chuyên trách của Chính phủ được thành lập để vận động, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi của bà con ta sinh sống ở nước ngoài. Đồng chí Nguyễn Khang, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Trưởng Ban. Thành viên gồm lãnh đạo một số bộ, ngành như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Lao động, Nội thương, Nông lâm, Công an, Hội Chữ thập đỏ…



Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cùng các đại biểu kiều bào tiêu biểu
về thăm quê hương nhân dịp Quốc khánh 2/9/2008
 

Ngày 10/1/1960, khi chuyến tàu đầu tiên đưa những người con xa xứ trở về với đất mẹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống tận cảng Hải Phòng để trực tiếp đón kiều bào, thể hiện tình cảm và sự trân trọng của Người cũng như của Đảng và Chính phủ đối với những người Việt sống xa quê hương bao năm qua. Tại buổi gặp mặt đầy cảm động này, những lời chỉ bảo, dặn dò ân cần, chu đáo của Người làm cho kiều bào nhận thức rõ và ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước và cổ vũ kiều bào thi đua, phấn đấu cùng với đồng bào cả nước vượt mọi khó khăn, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Những mốc son trên chặng đường trưởng thành và phát triển

Trong suốt chặng đường nửa thế kỷ kể từ khi thành lập Ban Việt kiều Trung ương đến nay, cùng với những thăng trầm của lịch sử, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) ngày càng được mở rộng hơn về số lượng, thành phần và phức tạp hơn về đặc điểm, tính chất. Trong bối cảnh đó, Ban Việt kiều Trung ương trước đây, nay là Uỷ ban Nhà nước về NVNONN, đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, bám sát và triển khai có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị được giao, vừa phát huy vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công tác đối với NVNONN, vừa thực hiện tốt chức năng vận động quần chúng, tập hợp và động viên kiều bào hướng về đất nước, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những thành tích đạt được trong công tác vận động NVNONN trong 50 năm qua là rất đỗi to lớn và đáng tự hào, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau.

Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1959-1974), ngay sau khi được thành lập, Ban Việt kiều Trung ương đã khẩn trương xây dựng bộ máy tổ chức, đón tiếp hơn 4 vạn kiều bào ta ở Thái Lan và Tân Đảo hồi hương và thu xếp cho kiều bào ổn định cuộc sống mới, thể hiện sự tri ân của Đảng và Nhà nước ta đối với một cộng đồng có nhiều đóng góp cho cách mạng. Đây là thắng lợi lớn của quá trình kiên trì vận động và đấu tranh, phá vỡ ý đồ của Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn gây sức ép với Chính phủ Thái Lan kết hợp với các thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc hòng lôi kéo kiều bào ta ở Thái Lan hồi hương về miền Nam và chống lại cách mạng.

Bên cạnh đó, Ban Việt kiều Trung ương tập trung vào việc xây dựng cốt cán và phong trào Việt kiều yêu nước làm cơ sở hỗ trợ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, công tác đối với NVNONN đã tập hợp, động viên kiều bào ta đồng hành và “chia lửa” với đồng bào trong nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thành tích nổi bật của công tác đối với NVNONN thời kỳ này là động viên kiều bào đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhân dân, tích cực giúp đỡ và phối hợp với các Cơ quan đại diện ta tiến hành vận động nhân dân và chính giới các nước, kể cả nhân dân Mỹ, hình thành mặt trận nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ Việt Nam. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Paris (05/1968 – 01/1973), kiều bào ta ở Pháp đã tận tụy ngày đêm phục vụ, giúp đỡ hai đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Chính phủ lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Không chỉ ủng hộ về mặt tinh thần, kiều bào còn trực tiếp đóng góp về vật chất cho cách mạng, tiêu biểu là những phong trào yêu nước như “Nắm gạo nuôi quân”, “Nở hoa diệt Mỹ”, “Nuôi quân diệt Mỹ” và “Dũng sĩ Khe Sanh” của kiều bào ở Thái Lan, nhằm quyên góp tiền gửi về nước hỗ trợ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những chuyển biến mạnh mẽ của phong trào Việt kiều yêu nước trong giai đoạn này không tách rời sự theo dõi và chỉ đạo sát sao của Ban Việt kiều Trung ương.

Để đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang đạt tới cao trào, Ban Việt kiều Trung ương đã được củng cố theo Quyết định số 220/TTg ngày 18/10/1973 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó quy định Ban là một Hội đồng liên ngành trực thuộc Chính phủ, có nhiệm vụ giúp Hội đồng Chính phủ nghiên cứu các chủ trương, chính sách đối với Việt kiều.



Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết gặp gỡ kiều bào tại Hoa Kỳ
nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ tháng 6/2007

Giai đoạn sau đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến năm 1992 là thời kỳ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trải qua nhiều xáo trộn và biến động. Trong những năm đó, chính sách thù địch của các nước đế quốc, sự chống phá điên cuồng của bọn phản động người Việt lưu vong cộng với khó khăn kéo dài về kinh tế-xã hội của đất nước cũng như việc đông đảo người ra đi bằng thuyền… đã tác động không nhỏ tới tâm tư, tình cảm của NVNONN và thân nhân của họ ở trong nước khiến các phong trào Việt kiều yêu nước phải đối mặt với không ít khó khăn. Trong bối cảnh đó, Ban Việt kiều Trung ương đã tập trung mở rộng, củng cố các tổ chức Hội đoàn và phong trào Việt kiều, phục vụ công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước, phá thế bao vây, cấm vận và âm mưu chống phá của các thế lực phản động.

Trong những năm 1975-1978, đất nước thống nhất đã tạo niềm hân hoan, phấn khởi với đông đảo kiều bào yêu nước. Nắm bắt cơ hội mới, Ban Việt kiều Trung ương đã chỉ đạo, hướng dẫn các hội đoàn kiều bào mở rộng đoàn kết, tập hợp kiều bào yêu nước, trong đó đã hình thành hơn 10 hội người Việt Nam tại các địa bàn chủ chốt như: Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Đức, Ý, Nhật…, số người tham gia phong trào Việt kiều yêu nước tăng lên đáng kể. Nhiều đoàn đại biểu Việt kiều và cốt cán về thăm đất nước, trao đổi kinh nghiệm xây dựng phong trào và hội đoàn, tạo sự gắn bó khá mật thiết giữa các phong trào với các cơ quan trong nước.

Trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trước những khó khăn của đất nước cũng như những biến động trong tâm tư của kiều bào và thân nhân của họ ở trong nước, Ban Việt kiều Trung ương, một mặt đẩy mạnh tuyên truyền, giải thích để hạn chế những nhận thức lệch lạc của người dân, mặt khác tích cực và kiên trì vận động, giải thích với các hội đoàn và những cán bộ Việt kiều cốt cán. Thông qua sự liên hệ chặt chẽ với các tổ chức nòng cốt và cán bộ cốt cán, Ban đã hỗ trợ tích cực để các phong trào Việt kiều yêu nước tiếp tục trụ vững, phát huy vai trò của mình trong cộng đồng. Chính vì vậy, trong những năm sau đó mối liên hệ giữa Ban với Hội người Việt Nam ở các nước ngày càng chặt chẽ hơn. Còng trong thời gian này, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 4/10/1982 định hướng cho công tác về NVNONN. Sau Chỉ thị này, công tác vận động kiều bào chuyển biến mạnh theo hướng tập trung xây dựng nòng cốt, hỗ trợ phong trào. Hằng năm, lãnh đạo Ban đều gặp gỡ với lãnh đạo các hội và những cán bộ phong trào cốt cán. Ban cũng gửi nhiều sách báo, ấn phẩm thông tin, văn hoá phục vụ công tác tuyên truyền, vận động kiều bào; tổ chức, hướng dẫn nhiều cán bộ cốt cán và kiều bào về nước tham dự các đợt sinh hoạt chính trị lớn và gặp gỡ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Trước nhu cầu gửi tiền, hàng của Việt kiều về giúp thân nhân trong nước, thông qua việc thực hiện thí điểm có hiệu quả của Ban Việt kiều thành phố Hồ Chí Minh, Ban Việt kiều Trung ương đã chủ động kiến nghị bãi bỏ mọi hạn chế về số lần và trị giá tiền gửi, bỏ sổ nhận tiền, khuyến khích gửi tư liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng thiết yếu. Điều này đã khiến cho lượng kiều hối tăng mạnh, mỗi năm ước đạt gần 01 tỷ đô la Mỹ. Bên cạnh đó, qua việc đẩy mạnh công tác vận động của Ban và của các bộ, ngành, nhiều trí thức Việt kiều đã về nước hợp tác, trao đổi, giảng dạy, đóng góp kiến thức và công nghệ tiên tiến, mang lại những hiệu quả to lớn, thiết thực cho đất nước.

Để giúp Ban có thể đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 05/6/1979, Chính phủ ban hành Nghị định số 209-CP, quy định Ban Việt kiều Trung ương là cơ quan chuyên trách và tổng hợp của Hội đồng Chính phủ, giúp Hội đồng Chính phủ thống nhất chỉ đạo và quản lý các mặt công tác đối với người Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Tiếp đó, ngày 28/7/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 84-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Việt kiều Trung ương, trong đó quy định Ban là cơ quan giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thống nhất chỉ đạo về quản lý công tác Việt kiều.

Vào cuối những năm thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, do ảnh hưởng của những thay đổi thể chế chính trị tại các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, trong nội bộ một số phong trào Việt kiều đã xuất hiện những quan điểm không thống nhất với đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở trong nước. Trước những biến động trên, Ban Việt kiều Trung ương đã theo sát tình hình, kiên trì vận động cán bộ cốt cán giữ vững phong trào. Vì vậy, trên một số tờ báo của nhiều Hội Việt kiều đã xuất hiện ngày càng nhiều các bài phân tích đường lối đổi mới đúng đắn trong nước. Trong các Hội và cộng đồng, ngày càng có nhiều tiếng nói phản đối quan điểm của Nhóm “Tâm thư”. Một số nhân sỹ có tên tuổi đã từ chối ký tên vào “Tâm thư” dù nhóm này đã gặp vận động. Một số người do suy nghĩ giản đơn bị lợi dụng ký tên vào “Tâm thư” đã chủ động lên tiếng rút khỏi danh sách những người ký tên. Nhờ vậy, tuy ở một số địa bàn có tình trạng hội người Việt Nam tự giải tán, nhưng phong trào yêu nước, hướng về Tổ quốc của kiều bào không bị giảm sút, nhiều hình thức mới tập hợp kiều bào ra đời.



Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gặp gỡ sinh viên Việt Nam tại
thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc, ngày 17/10/2009

Năm 1993 là năm đánh dấu bước đổi mới về tư duy trong công tác vận động NVNONN, mở đầu bằng việc tổ chức thành công Hội nghị Xuân Quý Dậu (tháng 2/1993) với sự tham dự của nhiều đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cùng đại diện của hầu hết các bộ, ngành liên quan trực tiếp lắng nghe ý kiến của kiều bào. Hội nghị đánh dấu bước phát triển mới trong việc thực hiện chính sách hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc, mở ra khả năng huy động sự đóng góp nhiều mặt của kiều bào đối với công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước. Nhằm tạo bước chuyển trong nhận thức của toàn Đảng và các cơ quan chức năng, tháng 4/1993 Ban Việt kiều Trung ương đã trình Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ Đề án công tác Việt kiều trong thời kỳ đổi mới. Với sự tham mưu, đề xuất và dự thảo văn kiện của Ban, ngày 29/11/1993, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08-NQ/TƯ về chính sách và công tác đối với NVNONN và Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 55-CT/TW (tháng 05/1994) chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết này. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình chuyển biến nhận thức của toàn Đảng và các cơ quan chức năng đối với công tác này. Quan điểm “người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” lần đầu tiên được nêu trong văn kiện của Đảng. Bên cạnh đó, Ban đã chủ động đề xuất Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 567/TTg ngày 18/11/1993 về cơ chế sử dụng chuyên gia, trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tư vấn cho Chính phủ trong một số lĩnh vực. Với đề xuất của Ban, Quốc hội đã thông qua những điều khoản ưu đãi cho Việt kiều đầu tư về nước trong Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.

Trước những đổi thay nhanh chóng của tình hình kinh tế-xã hội của đất nước, ngày 30/7/1994 Chính phủ ban hành Nghị định số 74-CP về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài (thay thế Ban Việt kiều Trung ương), trong đó quy định Uỷ ban là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chỉ đạo lĩnh vực công tác về NVNONN. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động của Ủy ban, ngày 06/11/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/CP đặt Uỷ ban về NVNONN trực thuộc Bộ Ngoại giao. Tiếp đó, Nghị định số 37/CP ngày 26/4/1997 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Uỷ ban về NVNONN xác định Uỷ ban có vị trí như một Tổng cục trực thuộc Bộ Ngoại giao, thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chỉ đạo lĩnh vực công tác về NVNONN.  



Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cùng Đoàn kiều bào tiêu biểu
tại huyện Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu (tháng 4/2009)

Sau khi được đặt dưới sự quản lý của Bộ Ngoại giao (năm 1996), Uỷ ban đã gắn kết ngày càng chặt chẽ công tác vận động NVNONN với công tác đối ngoại, vận dụng những thành tựu đối ngoại để tác động vào cộng đồng. Nhờ vậy, công tác vận động NVNONN đã có nhiều chuyển biến quan trọng, kể cả tại các địa bàn phức tạp, có nhiều lực lượng chống đối. Từ năm 1996-2003, Ủy ban đã đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng chủ trương, chính sách và triển khai chính sách đối với NVNONN; trực tiếp góp phần hình thành 08 văn bản pháp lý tạo thuận lợi cho kiều bào trên hàng loạt vấn đề về hồi hương, xuất, nhập cảnh, lưu trú, áp dụng chế độ một mức giá, chuyển tiền về nước, mua nhà, khen thưởng… Việc triển khai những chủ trương, chính sách trên đã phát huy hiệu quả to lớn, đem lại những lợi ích thiết thực cho kiều bào, qua đó ngày càng khẳng định sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng NVNONN, tạo được nhận thức đúng đắn, tình cảm gắn bó và sự đóng góp tích cực của bà con đối với công cuộc xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tích cực có tính đột phá cũng đã được tiến hành, tác động mạnh mẽ tới cộng đồng: lần đầu tiên Chính phủ đã cho phép thành lập Quỹ Hỗ trợ và Vận động cộng đồng NVNONN (tháng 10/2002) với số ngân sách ban đầu 7 tỷ đồng nhằm hỗ trợ, giúp đỡ kiều bào, đặc biệt tại các địa bàn khó khăn, đồng thời tổ chức nhiều hoạt động hướng về cội nguồn. Nhằm tạo thêm một cầu nối giữa đồng bào trong nước với kiều bào ở nước ngoài, Ủy ban đã trực tiếp chuẩn bị các mặt để thành lập, chỉ đạo hoạt động của các hội liên lạc hoặc hội thân nhân kiều bào. Ngày 04/02/2002, Hội Liên lạc với NVNONN đã chính thức được thành lập và đến nay đã triển khai nhiều hoạt động tích cực trong công tác vận động NVNONN. Nhằm đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để cộng đồng hiểu rõ tình hình đất nước, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, từ ngày 06/02/1997, trước khi nước ta chính thức hoà mạng internet (19/11/1997), Tạp chí Quê Hương của Uỷ ban đã phát hành trên mạng internet và trở thành tờ báo điện tử đầu tiên của Việt Nam phục vụ nhu cầu thông tin và tình cảm của đồng bào sống xa Tổ quốc. Là tờ báo Việt Nam đầu tiên lên mạng internet, tạp chí Quê Hương đã làm tốt vai trò tiên phong, mở đường cho các cơ quan truyền thông và các cơ quan khác hoà mạng internet sau này.

Năm 2004 là mốc thời gian ghi đậm những chuyển biến cơ bản và tạo động lực mới trong công tác đối với NVNONN. Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 29/11/1993 về chính sách và công tác đối với NVNONN cũng như Chỉ thị 55-CT/TW của Ban Bí thư, Ủy ban về NVNONN đã chủ động đề xuất, tham mưu và xây dựng Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với NVNONN. Nghị quyết một văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị cơ bản, to lớn, toàn diện và lâu dài thể hiện sâu sắc tư duy đổi mới của Đảng ta về công tác này, được phổ biến rộng rãi trong toàn quốc, với kiều bào và tới tất các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn sinh động “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” được phản ánh rõ nét trong Nghị quyết, trở thành nhận thức chung của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị và của toàn dân. Tiếp theo đó, các Chương trình hành động của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao đã khẩn trương đưa Nghị quyết vào cuộc sống và tạo nên bước chuyển quan trọng trong việc gắn kết hoạt động của các cơ quan chức năng với công tác vận động kiều bào.



Ủy ban đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất trong dịp
kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập tháng 11/2004

Cùng với việc triển khai Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, công tác đối với NVNONN đã bước vào giai đoạn mới, được triển khai mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các mặt. Nhiều biện pháp tích cực có tính đột phá đã được tiến hành, tác động mạnh mẽ tới cộng đồng NVNONN. Nhiều chính sách thông thoáng đảm bảo lợi ích thiết thực của NVNONN như những sửa đổi có tính đột phá trong quy định về các vấn đề quốc tịch, miễn thị thực, cư trú, mua và sở hữu nhà ở trong nước… đã tạo sự phấn khởi, tin tưởng trong cộng đồng ở tất cả các địa bàn và tăng thêm gắn bó của kiều bào với đất nước. Cho đến nay về cơ bản đã hình thành một hệ thống tương đối hoàn chỉnh các quy định và chính sách ngày càng thể hiện tốt hơn tinh thần “NVNONN là bộ phận không tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.

Công tác vận động cộng đồng có nhiều đổi mới về nội dung và phong phú, đa dạng về hình thức, trong đó có những biện pháp vận động có tính đột phá, lần đầu tiên được tiến hành có kết quả; trực tiếp góp phần làm thất bại, tan rã những âm mưu chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực phản động người Việt lưu vong, tăng cường sự gắn bó giữa kiều bào với quê hương. Hàng loạt các hoạt động lớn được Ủy ban tổ chức thường xuyên và liên tục nhằm tạo điều kiện để kiều bào tham gia các sự kiện chính trị, xã hội lớn của đất nước, gắn bó với cội nguồn dân tộc, khơi dậy và giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, phẩm giá con người Việt Nam như: Chương trình “Xuân Quê hương” được tổ chức vào dịp Tết nguyên đán hàng năm, tổ chức cho các đoàn kiều bào tiêu biểu về dự Quốc lễ giỗ Tổ Hùng Vương, Quốc khánh 2/9, tham gia các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” nhằm tưởng nhớ và tri ân những anh hùng, liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc tại Côn Đảo, Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An; tổ chức các đoàn văn nghệ đi biểu diễn phục vụ bà con ở các địa bànViệc tổ chức thành công các hoạt động trên như “ánh sáng” đẩy lùi “bóng tối”, góp phần làm thất bại, tan rã những âm mưu của các thế lực phản động người Việt lưu vong chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sự gắn bó kiều bào với quê hương như một “bộ phận không tách rời” của cộng đồng dân tộc. Bên cạnh đó, Uỷ ban luôn chủ động cung cấp mọi thông tin liên quan đến tình hình cộng đồng cho các cơ quan thông tấn, báo chí để đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời phối hợp chặt với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam… xây dựng các chương trình, chuyên mục dành riêng cho kiều bào, nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin về tình hình trong nước cũng như nhu cầu thưởng thức văn hoá nghệ thuật của kiều bào.



Đoàn đại biểu kiều bào tiêu biểu về thăm quê hương nhân dịp Quốc khánh 2/9/2008 chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thực hiện tinh thần hoà hợp, đại đoàn kết dân tộc, khép lại quá khứ, với tư duy đổi mới và tinh thần chủ động tiến công, Uỷ ban đã chủ động đề xuất với Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đồng thời phối hợp tốt với các bộ, ngành hữu quan trực tiếp tổ chức cho một số nhân vật chức sắc trong chính quyền cũ như Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Lê Phước Sang… về Việt Nam; thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai về thăm viếng, hoạt động Phật pháp tại Việt Nam; nhạc sỹ Phạm Duy hồi hương và được phép phổ biến các tác phẩm âm nhạc có nội dung tích cực trong nước… Các khía cạnh nhân đạo cũng được quan tâm giải quyết như chuyển nghĩa địa Bình Dương sang chế độ quản lý dân sự và hiện đang xem xét vấn đề tìm và cải táng hài cốt những người phục vụ cho chế độ cũ bị chết trong trại cải tạo. Tất cả các hoạt động này đã tác động tích cực đến cộng đồng cũng như dư luận trong và ngoài nước, qua đó từng bước phân hoá, cô lập, đẩy lùi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực phản động người Việt lưu vong, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với các nhóm người Việt cực đoan, Uỷ ban đã chủ động, phối hợp với các cơ quan liên quan kịp thời đấu tranh chống lại các âm mưu và hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc, khơi lại quá khứ và liên kết với các nhóm phản động sở tại chia rẽ cộng đồng và chống lại đất nước, qua đó góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững môi trường hoà bình và ổn định cho sự phát triển của đất nước.

Nhằm phát huy tiềm năng to lớn của cộng đồng NVNONN như là “một nguồn lực” của dân tộc, đặc biệt đội ngũ trí thức và doanh nhân kiều bào, Uỷ ban đã chủ trì tổ chức nhiều hội thảo nhằm tập hợp ý kiến đóng góp của kiều bào đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như Hội nghị “Trí thức kiều bào với sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước”, Hội nghị “Doanh nhân NVNONN với sự nghiệp xây dựng, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”… Tháng 8/2009, Uỷ ban đã đứng ra tổ chức Đại hội lần thứ nhất Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu tập hợp, liên kết các doanh nhân, doanh nghiệp NVNONN giúp nhau làm ăn, kinh doanh, đặc biệt tạo cơ hội để các doanh nghiệp kiều bào kinh doanh, đầu tư về trong nước. Uỷ ban cũng đang tích cực xây dựng Đề án về “Chính sách, biện pháp thu hút chuyên gia, trí thức NVNONN xây dựng đất nước” nhằm tạo bước đột phá mới trong việc thu hút “chất xám” của các chuyên gia, trí thức kiều bào. Vào tháng 11/2009, Uỷ ban sẽ chủ trì tổ chức “Hội nghị NVNONN lần thứ nhất” tại Hà Nội nhằm thể hiện cao nhất tinh thần đại đoàn kết dân tộc, ý chí và nguyện vọng của cộng đồng hướng về đất nước, đồng thời nâng cao hơn nữa nhận thức của cả hệ thống chính trị trong công tác đối với NVNONN.



Lãnh đạo và cán bộ Ủy ban Nhà nước về NVNONN
tại Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Ủy ban (tháng 11/1999)
 

Đối với thế hệ trẻ kiều bào, Uỷ ban luôn dành sự quan tâm đặc biệt, thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động thiết thực nhằm động viên, khuyến khích họ gắn bó với cội nguồn dân tộc: trong 6 năm liên tục kể từ năm 2004 đến nay Uỷ ban đều tổ chức chương trình “Trại hè Việt Nam” dành cho thanh niên, sinh viên kiều bào về nước tìm hiểu truyền thống lịch sử, văn hoá và cội nguồn dân tộc; tổ chức festival thanh niên, sinh viên kiều bào Châu Âu nhằm tăng cường quan hệ gắn bó giữa thanh niên, sinh viên kiều bào với nhau và với thanh niên, sinh viên trong nước. Uỷ ban cũng rất chú trọng công tác dạy tiếng Việt cho các thế hệ kiều bào thứ 3, thứ 4 và xác định đây là chiến lược “trồng người” cho tương lai. Sau khi đã hoàn tất Đề án “Đẩy mạnh công tác tiếng Việt đối với NVNONN từ nay đến năm 2020”, sắp tới Ủy ban sẽ triển khai thí điểm công tác dạy tiếng Việt tại một số địa bàn.

Hoạt động tích cực, chủ động của Uỷ ban trong những năm qua đã mang lại kết quả quan trọng, đóng góp vào thành công chung trong công tác của Đảng và Nhà nước ta đối với NVNONN. Số lượng NVNONN về nước thăm thân, du lịch, làm ăn, đầu tư, kinh doanh, hoạt động nhân đạo, từ thiện… ngày càng tăng: năm 1987 có 8.000 lượt người về nước, đến năm 2003 có 300.000 lượt người, năm 2005 có hơn 450.000 lượt người (gấp hơn 5 lần so với năm 1987), năm 2006 có hơn 501.000 lượt người về nước; năm 2008, do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, số lượng này có giảm nhưng vẫn đạt 404.401 lượt người. Lượng kiều hối gửi về nước tăng dần qua các năm: năm 1991 mới chỉ là 35 triệu USD, đến năm 2003 đã đạt 2,7 tỷ USD, năm 2007 đạt 6,7 tỷ USD, đặc biệt năm 2008 đạt 7,2 tỷ USD. Ngày càng có nhiều NVNONN về nước đầu tư: hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp đứng tên hoặc có vốn của NVNONN đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký gần 2 tỷ USD, trong số đó, khoảng 60% dự án được đánh giá hoạt động có hiệu quả. Mỗi năm có hàng trăm lượt chuyên gia, trí thức kiều bào về nước tham gia nghiên cứu giảng dạy, giáo dục đào tạo đại học, trên đại học; hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ… với trong nước và nhiều người đã có những công trình nghiên cứu thành công, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng đất nước.


Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng các ca sĩ, diễn viên
trong và ngoài nước tại Xuân Quê Hương 2008
 

Năm 2008, nhằm tạo thêm động lực và những bước đột phá mới trong công tác về NVNONN, trên cơ sở các Hội nghị và báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, Ủy ban đã tham mưu và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg ngày 6/6/2008. Chỉ thị đề ra một loạt các nhiệm vụ quan trọng và các chủ trương, giải pháp lớn để phát huy vai trò tích cực của cộng đồng NVNONN trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác quan trọng này, ngày 18/7/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 102/2008/QĐ-TTg đổi tên Ủy ban về NVNONN thành Uỷ ban Nhà nước về NVNONN, mở rộng nhiệm vụ và quyền hạn cho Ủy ban trong việc thực hiện chức năng quản lý và tham mưu cho Đảng và Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực công tác có liên quan đến cộng đồng NVNONN, đồng thời kiện toàn bộ máy của Ủy ban. Nghị định số 15/2008/NĐ-CP ngày 4/2/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao cũng nhấn mạnh công tác đối với NVNONN là một trong bốn mảng công tác trọng tâm của Bộ Ngoại giao.  

Chặng đường phía trước

50 năm là chặng đường dài từ Ban Việt kiều Trung ương đến Uỷ ban Nhà nước về NVNONN. Khởi đầu là một cơ quan mang tính liên ngành, với biên chế chính thức hạn chế như một tổ chuyên viên trong Văn phòng Chính phủ (năm 1983, Ban Việt kiều Trung ương chỉ có 24 người), đến nay, Uỷ ban đã có 8 đơn vị chức năng, trong đó có 05 đơn vị hành chính và 03 đơn vị sự nghiệp với tổng số cán bộ, nhân viên hơn 80 người. Đánh dấu chặng đường 50 năm của Ủy ban (23/11/1959-23/11/2009) là một loạt các hoạt động đầy ý nghĩa mở đầu bằng Chương trình “Xuân Quê hương 2009” lần đầu tiên được truyền hình quốc tế trực tiếp và cao điểm là Hội nghị NVNONN lần thứ nhất với sự tham gia của đại diện kiều bào từ tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ, đại diện các cơ quan chức năng ở trung ương và địa phương trong cả nước. Đây là hoạt động có quy mô lớn nhất từ trước đến nay trong công tác đối với NVNONN nhằm quy tụ kiều bào trên toàn thế giới hướng về quê hương, đóng góp tài năng, trí tuệ, kinh nghiệm, công sức... cho sự nghiệp chung là xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, việc kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Ủy ban Nhà nước về NVNONN (tiền thân là Ban Việt kiều Trung ương) sẽ mở đầu một giai đoạn mới trong công tác đối với NVNONN.



Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn cắt băng khai mạc Triển lãm ảnh “Bác Hồ với kiều bào” tại cuộc “Gặp gỡ thanh niên, sinh viên kiều bào châu Âu”
tại Matxcơva, LB Nga năm 2008
 

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, vai trò và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, quan hệ giữa Việt Nam với các nước, trong đó có cả những nước có đông người Việt sinh sống ngày càng phát triển tốt đẹp. Vận hội mới và thách thức mới càng đòi hỏi chúng ta phải củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có cộng đồng NVNONN-một bộ phận máu thịt của dân tộc Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới cũng như những tình cảm, nguyện vọng của kiều bào, thời gian tới chúng ta cần tiếp tục triển khai toàn diện, mạnh mẽ Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết 36 và Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện công tác đối với NVNONN. Tất cả các cơ quan từ Trung ương đến địa phương cần thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”, xác định công tác vận động kiều bào là trách nhiệm của chính mình, từ đó đề ra các chương trình hành động thiết thực và hiệu quả.  Đối với Ủy ban Nhà nước về NVNONN, để phát huy những thành quả đã đạt được trong 50 năm qua cũng như đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trong chặng đường kế tiếp, cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ công tác đối với NVNONN trên các mặt sau:

Một là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan nhằm bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các cơ chế, chính sách bảo đảm những quyền lợi chính đáng của kiều bào nhằm động viên và tạo điều kiện cho kiều bào tham gia xây dựng đất nước, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách và biện pháp bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài.

Việc xây dựng và triển khai chính sách cần tập trung vào một số vấn đề sau:

- Thực hiện tốt chính sách về quốc tịch theo Luật Quốc tịch (sửa đổi) năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung điều 126 - Luật Nhà ở và điều 121-Luật Đất đai cho phép mở rộng đối tượng NVNONN được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách miễn thị thực đối với người VN định cư ở nước ngoài, bổ sung những quy định mới hoặc điều chỉnh những nội dung còn bất cập nảy sinh trong quá trình triển khai nhằm đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của bà con.

-  Cải tiến theo hướng thuận lợi hoá, minh bạch hoá những quy định về hồi hương và dịch chuyển tài sản của NVNONN về trong nước.

- Đẩy mạnh các biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác với chính quyền các nước có đông người Việt sinh sống, bao gồm cả việc ký các hiệp định bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho kiều bào hội nhập và nâng cao vị trí trong xã hội sở tại, bảo vệ quyền lợi chính đáng của kiều bào.

Hai là, thành lập các hội đoàn người Việt ở tất cả những nơi có người Việt sinh sống tiến tới xoá bỏ tình trạng “vùng trống, vùng trắng” về tổ chức; hỗ trợ để xây dựng cộng đồng đoàn kết vững mạnh, thành đạt, hội nhập, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc, đồng thời hướng về quê hương đất nước.

Để đạt được mục tiêu này, cần tiến hành các biện pháp sau:

- Củng cố và tăng cường hoạt động của các tổ chức hội đoàn đã được thành lập, đồng thời thành lập các hội đoàn mới với những hình thức đa dạng ở tất cả các nơi có bà con sinh sống. Tuỳ theo nhu cầu của kiều bào, sẽ khuyến khích thành lập các hình thức hội đoàn khác nhau như hội doanh nhân, hội đồng hương, hội nghề nghiệp, hội thanh niên-sinh viên, hội phụ nữ… nhằm tăng cường đoàn kết và hướng về quê hương, đất nước. Những địa bàn nào có điều kiện lập được tổng hội (hội toàn quốc) thì khuyến khích, hỗ trợ.

- Đẩy mạnh công tác dạy và học tiếng Việt ở tất cả các địa bàn, thông qua việc kết hợp giữa sự hỗ trợ của Nhà nước (sách giáo khoa, kinh phí, cử giáo viên sang dạy, đào tạo giáo viên từ cộng đồng…) và sự chủ động của cộng đồng; đẩy mạnh xã hội hoá công tác tiếng Việt, khuyến khích mọi thành phần, tổ chức tham gia; thông qua kênh ngoại giao vận động chính quyền sở tại ở những nơi có đông người Việt đưa tiếng Việt vào chương trình học của các trường phổ thông như một ngoại ngữ.

- Tiếp tục chủ trì tổ chức hoặc hỗ trợ việc tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ giữa thanh niên, sinh viên kiều bào các nước với nhau và với thanh niên, sinh viên trong nước; tổ chức các chuyến đi “về nguồn”, thăm lại các di tích lịch sử cách mạng nhằm giáo dục truyền thống, tinh thần yêu nước đối với các thế hệ trẻ kiều bào; tổ chức tốt mô hình Nhà văn hoá hoặc Trung tâm văn hoá Việt tại các địa bàn có đông người Việt nhằm thúc đẩy giao lưu giữa người Việt ở các nơi; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối với NVNONN nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần ngày càng cao của kiều bào.

Ba là, tích cực đấu tranh phân hoá, cô lập, đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ về cơ bản sự chống đối chính trị của các phần tử phản động, cực đoan trong cộng đồng; thực hiện hoà hợp và đại đoàn kết dân tộc:

Việc đẩy mạnh đấu tranh nhằm phân hoá, cô lập và đẩy lùi bọn phản động cực đoan trong cộng đồng người Việt sẽ hỗ trợ mạnh mẽ công tác vận động NVNONN hướng về đất nước, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền quốc gia, tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát triển đất nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, trong thời gian tới, Uỷ ban sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, đấu tranh dư luận; xúc tiến việc đưa VTV4 vào hệ thống truyền hình cáp tại các nước có đông người Việt sinh sống; đưa các sách, báo, tạp chí ở trong nước trực tiếp đến cộng đồng nhằm cung cấp nguồn thông tin chính thống về tình hình mọi mặt của đất nước cũng như những đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho kiều bào; chọn một số báo chí tốt của người Việt ở hải ngoại để hỗ trợ, cung cấp tin, bài để từng bước đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc. Thông qua những chuyến đi khảo sát tình hình cộng đồng tại các nước, Uỷ ban sẽ tăng cường các hình thức tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng, kể cả những đối tượng còn có chính kiến khác để trực tiếp giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kiều bào; tranh thủ lôi kéo những đối tượng trung dung, đồng thời phân hoá, cô lập những phần tử phản động, cực đoan, tiến tới xoá bỏ về cơ bản sự chống đối chính trị đối với đất nước.

Bốn là, tạo điều kiện thuận lợi và tranh thủ cao nhất nguồn lực của NVNONN về kinh tế, tri thức, công nghệ... đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Nhằm thu hút và tận dụng nguồn tri thức to lớn của kiều bào, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Triển khai và hỗ trợ hoạt động của Hiệp hội Doanh nhân NVNONN.

- Mở rộng sự tham gia của những kiều bào tiêu biểu vào các đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội trong nước.

- Phối hợp, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương xây dựng chương trình hành động trong công tác đối với NVNONN, đề xuất các phương án tranh thủ, thu hút tri thức khoa học-công nghệ, tri thức quản lý của kiều bào vào các dự án phát triển kinh tế-xã hội trọng điểm, đồng thời có chính sách đãi ngộ thoả đáng nhằm tạo điều kiện thuận lợi để họ phát huy khả năng.

- Thiết lập cơ chế trao đổi thường xuyên để NVNONN có thể đóng góp ý kiến vào những vấn đề phát triển của đất nước.

Năm là, củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhân sự làm công tác về NVNONN.

Đây là nhân tố chủ quan, có ảnh hưởng quyết định tới kết quả công tác đối với NVNONN. Vì vậy, trong thời gian tới, Ủy ban sẽ tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác này theo hướng tinh gọn, hiệu quả; bổ sung, tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có lòng say mê nghề nghiệp, đồng thời chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là các cán bộ trẻ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối với NVNONN từng bước chính quy, hiện đại, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao. Ngoài ra, Uỷ ban sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành, địa phương và các Cơ quan đại diện ta xây dựng cơ chế phối hợp công tác, trao đổi thông tin liên quan đến NVNONN, đồng thời củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ cấu tổ chức, nhân sự làm công tác đối với NVNONN từ trung ương đến các địa phương, từ trong nước ra ngoài nước nhằm tăng cường sự chỉ đạo thống nhất của Đảng và Chính phủ về công tác này, và huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị trong công tác đối với NVNONN.



Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn trao cho ông Lê Quang Vịnh, đại diện cựu tù
chính trị ở Côn Đảo 1 tỷ đồng của Doanh nghiệp kiều bào tại Kharkop
tặng các cựu tù chính trị Côn Đảo trong Chương trình giao lưu nghệ thuật
“Huyền thoại Côn Đảo” tại Côn Đảo tháng 4/2009

Kế thừa và phát huy những thành quả to lớn đã đạt được trong suốt 50 năm qua, cùng với sự nỗ lực của Uỷ ban và sự phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong toàn hệ thống chính trị, công tác đối với NVNONN trong thời gian tới sẽ ngày càng được chú trọng thực hiện theo đúng tinh thần Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đáp ứng những yêu cầu của đất nước cũng như những tình cảm, nguyện vọng của kiều bào trên khắp thế giới, góp phần quan trọng thực hiện thành công chính sách đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Hơn lúc nào hết, các cán bộ công chức của Ủy ban cần thấm nhuần và nhận thức rõ công tác đối với NVNONN là một trong các trụ cột của hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời thấy rõ được sự hiện hữu của công tác này trong các lĩnh vực ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa để góp phần tích cực hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Sơn
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao,
Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về NVNONN
 

 Ý kiến của bạn |   Gửi tin qua E-mail |   Bản để in
Tin liên quan
Các tin khác

Video

Dấu ấn Việt Nam: Bác Hồ và sự trong sáng của tiếng Việt | VTV4
Huy động hiệu quả nguồn lực kiều bào vào sự nghiệp phát triển đất nước
Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ nhất
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
Đại biểu kiều bào dự Hội nghị người VNONN lần thứ nhất vào lăng viếng Bác
Thứ trưởng Ngoại giao - Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn: Cùng nhau thắp sáng tinh thần đại đoàn kết dân tộc
Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất thành công tốt đẹp
Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước
Thắng cảnh bạn thích nhất?
Vịnh Hạ Long
Phong Nha - kẻ Bàng
Cát Bà
Đảo Phú Quốc
Fanxipang