Tự chủ thời đại – Nhà hậu Lê. Chương II. Nam triều Bắc triều

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN IV

TỰ CHỦ THỜI ĐẠI
(Thời kỳ Nam Bắc phân tranh)
(1528 – 1802)

NHÀ HẬU LÊ
Thời kỳ phân tranh
(1533 – 1788)

CHƯƠNG II
NAM TRIỀU BẮC  TRIỀU
(1527 -1592)

1. CHÍNH TRỊ NHÀ MẠC

Năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua, đặt niên hiệu là Minh Đức.

Nhà Mạc tuy đã làm vua, nhưng còn sợ lòng người nhớ nhà Lê, cho nên công việc gì cũng theo phép nhà Lê cả, rồi lại tặng phong cho những người vì nhà Lê mà tuẫn tiết, và lục dụng những con cháu các quan cựu thần, phong cho quan tước để dụ về với mình. Nhưng mà kẻ thì trốn tránh vào ở chỗ sơn lâm, kẻ thì đi ra ngoại quốc, kẻ thì đổi họ tên, không mấy người chịu phục. Lại có kẻ tức giận vì họ Mạc làm điều gian ác, tụ họp những người nghĩa khí nổi lên đánh phá, như Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Trường khởi nghĩa ở đất Thanh Hoá, nhưng vì thế lực không đủ, cho nên phải thua. Sau lại có Lê Ý  nổi lên đánh họ Mạc ở đất Mã Giang, mấy phen đã được thắng trận, nhưng cũng vì khinh địch cho nên đến nỗi phải bắt.

Mạc Đăng Dung bắt chước lối nhà Trần, làm vua được ba năm  thì nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ Trai, làm thái thượng hoàng.

Năm Canh Dần (1530) Mạc Đăng Doanh lên làm vua, đặt niên hiệu là Đại Chính. Đăng Doanh tuy làm vua nhưng công việc trong nước thường do Đặng Dung quyết đoán cả.

Mạc Đăng Doanh làm vua được 10 năm, đến năm Canh Tí (1540) thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải.

Mạc Phúc Hải lên nối ngôi, đổi niên hiệu là Quảng Hòa.

2. VIỆC NHÀ MẠC GIAO THIỆP VỚI NHÀ MINH

- Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh: Vua nhà Minh đã sai quan đi đến Vân Nam cùng với quan Tuần phủ sở tại tra xét bên An Nam thực hư thế nào.

Quan nhà Lê sang Vân Nam kể rõ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh mã sang đánh.

Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước kia sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa" mà làm những việc "vị lợi" mà thôi.

Năm Đinh Dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm Đô đốc, Mao Bá ôn làm Tán lý quân vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết.

Mạc Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái  sang sứ nhà Minh để xin hàng

Đến tháng 11 năm Canh Tý (1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù  và đất Khâm Châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.

Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách nói đem binh sang đánh nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô thống sứ hàm quan nhị phẩm nhà Minh.

Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.

Đối với vua  là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người, là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục. Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được.

3. HỌ NGUYỄN KHỞI NGHĨA GIÚP NHÀ LÊ

- Khi Mạc Đăng Dung làm sự thoán đoạt thì các quan cựu thần trốn tránh đi cũng nhiều. Thủa ấy có người con ông Nguyễn Hoằng Dụ tên là Nguyễn Kim (hay là Nguyễn Hoằng Kim)[1] làm quan Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh hầu, trốn sang Ai Lao. Vua nước ấy là Xạ Đẩu  cho đến ở xứ Sầm Châu (thuộc Trấn Man phủ, đất Thanh Hóa).

Ông Nguyễn Kim đến ở Sầm Châu rồi cho người để tìm con cháu nhà Lê để đồ sự khôi phục. Đến năm Quí Tỵ (1532) tìm được một người con rốt vua Chiêu Tông tên là Duy Ninh lập lên làm vua, tức là Trang Tông.

Khi ấy lại có một người tướng giỏi tên là Trịnh Kiểm ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quang Hóa. Ông Nguyễn Kim thấy người có tài, gả con gái là Ngọc Bảo cho, để cùng ra sức giúp nhà Lê, dứt nhà Mạc.

Vua tôi nhà Lê nương náu ở Sầm Châu để chiêu tập quân sĩ, mãi đến năm Canh Tý (1540), ông Nguyễn Kim mới đem quân về đánh Nghệ An. Năm Nhâm Dần (1542) Trang Tông mới cất quân về đánh Thanh Hóa và Nghệ An, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây Đô, quan Tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.

4. QUYỀN VỀ HỌ TRỊNH

- Năm Ất Tỵ (1545) ông Nguyễn Kim đem quân tiến lên đánh Sơn Nam, đi đến hyện Yên Mộ bị Dương Chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết. Những binh quyền giao cả lại cho con rể là Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa lập hành điện ở đồn Vạn Lại (thuộc huyện Thụy Nguyên, Thanh Hóa) để cho vua ở, rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt, luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh họ Mạc.

Bấy giờ có những người danh sĩ như là các ông Phùng Khắc Khoan (tức là trạng Bùng), ông Lương Hữu Khánh đều vào giúp nhà Lê. Giang sơn bấy giờ chia làm hai: từ Thanh Hóa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam Triều: từ Sơn Nam trở ra thuộc về họ Mạc, làm Bắc triều.

Năm Bính Ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Nguyên, niên hiệu Vĩnh Định.

Năm Mậu Thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập thái tử là Duy Huyên làm vua, được 8 năm thì mất, tức là Trung Tông

Vua Trung Tông mất không có con, mà bấy giờ dòng dõi họ Lê cũng không có ai việc binh quyền thì ở trong tay Trịnh Kiểm cả.

Tục truyền rằng Trịnh Kiểm đã lưỡng lự muốn tự xưng làm vua, nhưng còn chưa dám định hẳn bề nào, các quan cũng không ai biết làm thế nào cho phải: Sau Trịnh Kiểm cho người đi lẻn ra Hải Dương hỏi ông Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức là trạng Trình, xem nên làm thế nào.

Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngảnh lại bảo đầy tớ rằng: “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”.

Sứ giả về kể lại cho Trịnh Kiểm nghe. Trịnh Kiểm hiểu ý mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được người cháu huyền tôn ông Lê Trừ, là anh vua Thái tổ, tên là Duy Bang, ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, rước về lập lên làm vua

Bấy giờ nhà Lê thì lo đánh họ Mạc để khôi phục lại đất Đông Đô, nhà Mạc thì muốn trừ họ Lê để nhất thống thiên hạ. Nhưng từ khi ông Nguyễn Kim mất rồi, và trong mấy năm về đời vua Trung Tông, Trịnh Kiểm cứ giữ thế thủ ở đất Thanh Hoá, để sửa sang binh lương, đợi ngày ra đánh họ Mạc

Nhà Mạc sai Mạc Kính Điển  là chú Mạc Phúc Nguyên cầm quân đi đánh họ Lê.

Mạc Kính Điển đem binh vào đánh Thanh Hóa cả thảy kể hơn mười phen, phen nào cũng phải thua trở về. Trịnh Kiểm cũng ra đánh Sơn Nam kể vừa 6 lần, nhưng không có lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm Kỷ Mùi (l559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, đã lấy được những tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện ở mặt Hải Dương, tưởng đã sắp thành công nhưng lại bị Mạc Kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh Hóa nguy cấp lắm, Trịnh Kiểm lại phải bỏ miền Bắc về giữ đất Tây Đô. Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung hưng, nhưng giang sơn vẫn chưa thu lại được như cũ, mà nhà Mạc có làm vua thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi.               

Năm Tân Dậu (1561) vua nhà Mạc là Phúc Nguyên mất, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi làm vua.

Việc tranh chiến vẫn cứ như trước: khi thì Trịnh Kiểm ra đánh Sơn Nam, khi thì Mạc Kính Điển vào đánh Thanh Hóa, hai bên không bên nào được hẳn.

5. TRỊNH TÙNG THỐNG LĨNH BINH QUYỀN

Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, trao quyền lại cho con là Trịnh Cối để lo việc đanh dẹp. Nhưng Trịnh Cối hay say đắm tửu sắc, tướng sĩ không mấy người phục; lại có em là Trịnh Trùng muốn cướp quyền của anh, bèn cùng với bọn Lê Cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về đồn Vạn Lại, rồi chia quân ra chống với Trịnh Cối.

Đương khi hai anh em họ Trịnh đánh nhau thì Mạc Kính Điển lại đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh Hóa, Trịnh Cối liệu thế đánh không nổi, bèn đem quân về hàng họ Mạc, được giữ quan tước như cũ. Quân nhà Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã Giang, tràn sang đóng ở đất Hà Trung, rồi đến vây đánh An Trường (thuộc huyện Thụy Nguyên) là chỗ vua nhà Lê đóng.

Bấy giờ vua Anh Tông về ở Đông Sơn, phong cho Trịnh Tùng làm tả thừa tướng, tiết chế chư quân, để chống giữ với quân nhà Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi rất là chắc chắn. Mạc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương phải rút quân về Bắc.

Quân nhà Mạc rút về rồi, vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy trưởng quốc công và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Lại sai ông Phùng Khắc Khoan đi chiêu tập những hoang dân ở Thanh Hóa về yên nghiệp làm ăn, và chỉnh đốn lại việc chính trị.

Bấy giờ việc gì cũng do ở Trịnh Tùng quyết đoán cả, uy quyền hống hách, vua cũng lấy làm lo. Lê Cập Đệ thấy vậy, mưu với vua để trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Cập Đệ, vua Anh Tông biết sự không thành, lo sợ lắm, bèn cùng với bốn hoàng tử chạy vào Nghệ An.

Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi, bèn cho người đi rước hoàng tử thứ năm là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về lập lên làm vua, rồi sai Nguyễn Hữu Liêu đem binh đi đuổi theo vua Anh Tông.

Anh Tông vào đến đất Nghệ An, thấy quân đuổi đến, vội vàng ẩn vào trong vườn mía, nhưng bị Hữu Liên tìm thấy đưa về, đến huyện Lôi Dương thì Trịnh Tùng sai người đến giết đi, rồi nói rằng vua tự thắt cổ chết.

Trịnh Tùng giết vua Anh Tông rồi, thăng thưởng cho những người đồng đảng với mình, và chia quân ra phòng giữ các nơi để chống với quân nhà Mạc.

Từ năm Quí Dậu (1573) cho đến năm Quí Mùi (1583) vừa 10 năm, Trịnh Tùng cứ giữ vững đất Thanh Hóa Nghệ An, để cho quân nhà Mạc vào đánh phải hao binh tổn tướng. Trong bấy nhiêu năm, tướng nhà Mạc là Mạc Kính Điển, Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc Liễn khi thì vào đánh Thanh Hóa, khi thì vào đánh cả hai mặt Thanh và mặt Nghệ, nhưng mà không bao giờ thành công, phen nào cũng được một vài trận rồi lại thua, phải rút quân về.

Từ năm Ất Mão (1579) trở đi, Mạc Kính Điển mất rồi, Mạc Đôn Nhượng đem binh vào đánh họ Lê, nhưng cũng không được trận nào.

6. KHÔI PHỤC THÀNH THĂNG LONG

Đến năm Quí Mùi (1583) Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử binh mã ra đánh Sơn Nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó về sau năm nào cũng ra đánh, bắt quân nhà Mạc phải đổi thế công ra thế thủ. Và nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân dân đắp ba từng lũy, đào ba lần hào ở ngoài thành Đại La để làm kế thủ bị.

Quân nhà Lê ra đánh trận nào được trận ấy, Trịnh Tùng bèn quyết ý cử đại binh ra đánh Thăng Long.

Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải, Thái quận công Nguyễn Thất Lý đem binh trấn thủ các cửa bể và các nơi hiểm yếu. Sai Thọ quận công Lê Hòa ở lại giữ ngự dinh và cả địa hạt Thanh Hóa. Phòng bị đâu đó rồi, bèn đem hơn 5 vạn quân chia ra làm 5 đội, sai quan Thái phó Nguyễn Hữu Liêu, quan Thái úy Hoàng Đình Ái, Lân quận công Hà Thế Lộc, Thế Quận công Ngô Cảnh Hữu, mỗi người lĩnh một đội, còn Trịnh Tùng tự lĩnh 2 vạn quân ra cửa Thiên Quan (Ninh Bình), qua núi Yên Mã (ở huyện An Sơn) đất Tân Phong (tức là Tiên Phong) rồi kéo về đóng ở Tốt Lâm (?). 

Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp cũng điều động tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn 10 vạn, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu dực; Mậu Hợp tự dẫn trung quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.

Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến, bèn tự mình đốc tướng sĩ tự thề đánh cho được giặc để báo thù. Quân họ Trịnh đánh rất hăng, quân nhà Mạc chống không nổi, thua to, chết đến hàng vạn người. Mạc Mậu Hợp bỏ chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long. Nhưng vừa đến Tết Nguyên Đán, cho nên Trịnh Tùng đình chiến lại cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn Tết. Qua tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1592) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các vua nhà Lê rồi đặt ba điều ước để cấm quân sĩ.

1. Không được vào nhà dân mà lấy thức ăn và củi đuốc.

2. Không được cướp lấy của cải và chặt lấy cây cối.

3. Không được dâm hiếp đàn bà con gái, và không được vì tư thù mà giết người.

Ai phạm ba điều ấy thì cứ theo quân pháp mà trị. Đoạn rồi, tiến quân lên đánh Thăng Long thành.

Mạc Mậu Hợp thấy quân nhà Lê lại tiến lên, bèn sai Mạc Ngọc Liễn, Bùì Văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần Bách Niên ở lại giữ thành Thăng Long, rồi đem quân sang sông  Nhị Hà về đóng ở làng Thổ Khối.

Trịnh Tùng sai tướng chia quân vây đánh các cửa thành. Quân nhà Mạc giữ không nổi, ba tầng lũy đều phá cả, bọn Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê phải bỏ thành mà chạy, Nguyễn Quyện thì phải bắt.

Trịnh Tùng lấy được thành Thăng Long rồi, bắt quân phá những hào lũy đi, san phẳng ra làm bình địa, rồi về Thanh Hóa đem tin thắng trận cho vua biết.

Sử không nói rõ tại làm sao Trịnh Tùng đã lấy được Thăng Long mà không đánh rấn đi, lại bỏ về Thanh Hóa. Có lẽ tại quân họ Trịnh tuy thắng trận, nhưng tướng sĩ đều mỏi mệt cả, vả lại thế họ Mạc hãy còn mạnh, ở lại sợ giữ không nổi, cho nên phải bỏ mà về.

Trịnh Tùng đã bỏ Thăng Long về Thanh Hóa, nhưng Mậu Hợp không biết nhân lấy việc ấy mà sửa sang việc võ bị, chỉnh đốn việc chính trị, lại cứ say đắm tửu sắc, bạc đãi các tướng sĩ, đến nỗi công việc hỏng nát, thân mình bị hại.

Bấy giờ Bùi Văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn Thị nhan sắc hơn người, Mạc Mậu Hợp muốn giết Văn Khuê đi để lấy Nguyễn Thị làm vợ.

Văn Khuê biết ý đem vợ vào ở huyện Gia Viễn (thuộc Ninh Bình). Mậu Hợp cho quân vào bắt. Văn Khuê phải xin về hàng với Trịnh Tùng.

7. NHÀ MẠC MẤT NGÔI

Trịnh Tùng được Văn Khuê về hàng, mừng lắm, liền sai Hoàng Đình Ái ra đón Văn Khuê rồi đem đi làm tiền đội, tự mình lại đem đại binh trở ra Tràng An, gặp quân nhà Mạc ở sông Thiên Phái (ở về cuối huyện Ý Yên và huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định), đánh nhau một trận, lấy được 70 chiếc thuyền. Tướng nhà Mạc là Trần Bách Niên về hàng.

Quân Trịnh Tùng kéo ra Bình Lục, sang Thanh Oai đóng ở bãi Tinh Thần (bây giờ là xã Thanh Thần ở huyện Thanh Oai) rồi tiến lên đến sông Hát Giang, cửa sông Đáy ra sông Hồng Hà, gặp tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn, đánh đuổi một trận lấy được chiến thuyền kể hàng nghìn chiếc.

Mạc Mậu Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng Long chạy sang Hải Dương về đóng ở Kim Thành  thuộc Hải Dương.  

Trịnh Tùng ra đến Thăng Long, rồi sai Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên sang đánh Mậu Hợp ở Kim Thành, lấy được vàng bạc của cải nhiều lắm, và bắt được mẹ Mậu Hợp đem về. 

Mạc Mậu Hợp thấy quân mình thua luôn, bèn giao quyền chính trị cho con là Mạc Toàn rồi tự mình làm tướng đem quân đi đánh.

Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo cả thảy 17 người về hàng nhà Lê.

Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh Lại, rồi sai Phạm Văn Khoái đem quân đi đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên Dũng và huyện Vũ Ninh (nay là Vũ Giang). Mạc Mậu Hợp phải bỏ thuyền chạy lên bộ, vào ẩn  trong cái chùa ở huyện Phượng Nhỡn. Văn Khoát đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được đem về Thăng Long, làm tội sống ba ngày, rồi chém đầu đem vào bêu ở trong Thanh Hóa.

Bấy giờ có con Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ ở đất Đông Triều biết tin Mạc Mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua, đóng ở huyện Thanh Lâm. Con cháu họ Mạc hơn 100 người và các quan văn võ đều về đấy cả, rồi treo bảng chiêu mộ quân sĩ, chẳng bao lâu được sáu bảy vạn người. Mạc Toàn là con Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ.

Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm Giang và huyện Thanh Lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cùng các quan cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng đánh được trận ấy, rồi về Thăng Long, sai quan vào rước vua Thế Tông Đông Đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng sĩ.

Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được một người con Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung  lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở đất Lạng Sơn để làm căn bản. Nhưng chẳng bao lâu quan Thái úy là Hoàng Đình Ái đem binh lên đánh. Mạc Kính Cung và Mạc Ngọc Liễn phải chạy sang Long Châu. Ít lâu sau Ngọc Liễn chết có để thư lại dặn Kính Cung rằng: “Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là số trời đã định; còn dân ta thì có tội gì, mà ta nỡ để khổ sở mãi về việc chiến tranh? Vậy ta nên đành phận lánh mình ở nước ngoài, chứ đừng có đem lòng cạnh tranh mà lại mời người Tàu sang làm hại dân nước mình”.

Trung hậu thay, mấy lời dặn của Mạc Ngọc Liễn! Chỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theo!   

Từ đó nhà Mạc mất ngôi vua, ngày sau tuy Mạc Kính Cung nhờ có nhà Minh bênh vực được về ở đất Cao Bằng, nhưng cũng là ở một chỗ nhỏ mọn gần biên thùy mà thôi.

Nhà Mạc làm vua từ Mạc Đăng Dung cho đến Mạc Mậu Hợp là từ năm Đinh Hợi (1527) đến năm Nhâm Thìn (1592) kể vừa được 65 năm.    

Trịnh Tùng tuy đã lập được công to: dứt được nhà Mạc, lấy lại được đất Đông Đô, nhưng nhà Minh vẫn có ý bênh nhà Mạc không chịu nhận nhà Lê. Vả con cháu họ Mạc hãy còn nhiều; nay xưng vương chỗ này, mai khởi loạn chỗ khác, cho nên Trịnh Tùng phải một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu, và một mặt dùng lực mà đánh dẹp dư đảng họ Mạc.

8. VIỆC NHÀ HẬU LÊ GIAO THIỆP VỚI NHÀ MINH

Khi Trịnh Tùng đã thu phục được thành Thăng Long rồi, người nhà Mạc sang kêu với vua nhà Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải là con cháu nhà Lê.      

Vua nhà Minh sai quan đến Nam Quan khám xét việc ấy.

Tháng 3 năm Bính Thân (1596) vua Thế Tông sai quan Hộ bộ Thượng thư là Đỗ Uông  và quan Đô ngự sử là Nguyễn Văn Giai lên Nam Quan tiếp quan Tàu. Sau lại sai hai ông hoàng thân là Lê Cánh, Lê Lựu cùng với quan Công bộ tả thị lang là Phùng Khắc Khoan đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng, 1.000 cân bạc, ấn An Nam Đô thống sứ của nhà Mạc và ấn An Nam Quốc Vương của vua nhà Lê ngày trước, sang cho quan nhà Minh khám. Nhưng quan nhà Minh lại bắt vua Thế Tông phải thân hành sang hội ở cửa Nam Quan.

Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá, đưa vua sang phó hội. Sang đến nơi, quan nhà Minh lại đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như tích cũ, rồi không chịu đến hội. Vua chờ lâu, không xong việc lại phải trở về. 

Đến tháng 4 năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế Tông lên hội ở Nam Quan. Triều đình sai quan Thái úy Hoàng Đình Ái đem 5 vạn quân đi hộ giá sang hội ở Nam Quan.

Đến khi xa giá về, Trịnh Tùng đem các quan đi đón mừng, rồi sai Công bộ tả thị lang Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, quan Thái thường tự khanh Nguyễn Nhân Thiệm  làm Phó sứ, đem đồ lễ sang Yên Kinh cống nhà Minh và xin phong.

Vua nhà Minh chỉ phong cho vua Thế Tông làm An Nam Đô thống sứ. Ông Phùng Khắc Khoan dâng sớ tâu rằng: “Đô thống sứ là chức cũ của họ Mạc, chứ vua nước Nam là dòng dõi họ Lê, mà phong cho chức ấy thì không xứng đáng”. Vua nhà Minh trả lời rằng: vẫn biết rằng họ Lê không ví như họ Mạc, nhưng lúc đầu mới phong, hãy tạm cho chức ấy, rồi về sau sẽ phong vương.

Ông Phùng Khắc Khoan phải chịu mà về. Từ đó nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như trước.

9. CON CHÁU NHÀ MẠC Ở CAO BẰNG

Từ khi Mạc Mậu Hợp và Mạc Kính Chỉ bị bắt, con cháu họ Mạc ẩn ở các nơi để mong đường khôi phục. Bấy giờ có Mạc Kính Chương xưng làm Tráng Vương, chiếm giữ từ huyện Đông Triều cho đến đất Yên Quảng.

Năm Bính Thân (1596) Trịnh Tùng sai quan Trấn thủ Hải Dương là Phan Ngạn tiến đánh, bắt được Kính Chương.

Lại có Mạc Kính Dụng là con Mạc Kính Chỉ chiếm giữ đất Yên Bắc (Lạng Sơn) xưng làm Uy Vương, nhưng cũng chẳng bao lâu bị quân họ Trịnh bắt được.

Còn Mạc Kính Cung  trước đã sang ở Long Châu, sau lại về cùng với đảng mình đánh phá ở đất Cao Bằng và đất Lạng Sơn. Trịnh Tùng sai quan lên đuổi đánh, nhưng Mạc Kính Cung sang kêu với nhà Minh, vua nhà Minh cho đưa thư sang bắt nhà Lê phải để đất Cao Bằng cho con cháu họ Mạc.

Nhà Lê bất đắc dĩ phải để đất Cao Bằng cho họ Mạc ở.

-------------------------------

* Chú thích:

[1] Xem sách Việt Nam khai quốc chí truyện, thì ông Nguyễn Kim tức là ông Nguyễn Hoằng Kim, /à con ông Nguyễn Hoằng Dụ, cháu ông Nguyễn Văn Lang, đều làm quan nhà Lê cả.

(Xem tiếp kỳ sau)