Bắc thuộc thời đại – Chương III + IV

(Tiếp theo kỳ trước)

Chương III

BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI (43-544)

I. NHÀ ĐÔNG HÁN (25-220)

1. CHÍNH TRỊ NHÀ ĐÔNG HÁN: Mã Viện đánh được Trưng Vương đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp luỹ đến đấy và biến cải mọi cách chính trị trong các châu quận. Đem phủ trị về đóng ở Mê Linh(1) và dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới, khắc sáu chữ: "Đồng  trụ chiết, Giao Chỉ diệt". Nghĩa là cây đồng trụ mà đổ thì người Giao Chỉ mất nòi.

Sử chép rằng người Giao Chỉ đi qua lại chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, phủ mất cả, đến bây giờ không biết cột ấy ở vào chỗ nào.

Từ đó chính trị nhà Đông Hán càng ngày càng ngặt thêm, mà những quan lại sang cai trị Giao Chỉ thường có lắm người tàn ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu. Dân ở quận Hợp Phố cứ phải xuống bể mò ngọc trai khổ quá, đến nỗi phải bỏ xứ mà đi.

Triều đình thì xa, quan lại ra cai trị thì tha hồ mà tung hoành, tiếng oan ức kêu không thấu vào đâu, cho nên thường hay có sự loạn lạc, làm cho dân gian phải nhiều sự khổ sở.

2. LÝ TIẾN VÀ LÝ CẦM. Quan cai trị đã tàn ác, nhà vua lại bạc đãi người bản xứ. Đời bấy giờ người mình dẫu có học hành thông thái cũng không được giữ việc chính trị. Mãi đến đời vua Linh đế (168-189) cuối nhà Đông Hán mới có một người bản xứ là Lý Tiến được cất lên làm Thứ sử ở Giao Chỉ. Lý Tiến dâng sớ xin cho người Giao Chỉ được bổ đi làm quan như ở Trung Châu bên Tàu. Nhưng Hán đế chỉ cho những người đỗ mậu tài hoặc hiếu liêm được làm lại thuộc ở trong xứ mà thôi, chứ không được đi làm quan ở châu khác. Bấy giờ có người Giao Chỉ tên là Lý Cầm làm lính túc vệ hầu vua ở trong điện, rủ mấy người bản xứ ra phục xuống sân mà kêu cầu. Hán đế mới cho một người Giao Chỉ đỗ mậu tài đi làm quan lệnh ở Hạ Dương và một người đỗ hiếu liêm làm quan lệnh ở Lục Hợp. Về sau Lý Cầm làm đến quan Tư lệ Hiệu uý, và lại có Trương Trọng cũng là người Giao Chỉ làm thái thú ở Kim Thành. Người Giao Chỉ ta được làm quan như người bên Tàu, khởi đầu từ Lý Tiến và Lý Cầm vậy.

3. SĨ NHIẾP (187-226). Về cuối đời nhà Đông Hán triều đình không có uy quyền ra đến ngoài, thiên hạ chỗ nào cũng có loạn. Đất Giao Chỉ bấy giờ nhờ có quan thái thú là Sĩ Nhiếp cùng với anh em chia nhau giữ các quận huyện, cho nên mới được yên.

Tiên tổ nhà Sĩ Nhiếp là người nước Lỗ, vì lúc người Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, mới tránh nạn sang ở đất Quảng Tín, quận Thương Ngô, đến đời ông thân sinh ra Sĩ Nhiếp là sáu đời. Ông thân sinh tên là Sĩ Tứ làm Thái thú quận Nhật Nam, cho Sĩ Nhiếp về du học ở đất Kinh sư, đỗ hiếu liêm được bổ Thượng thư lang, vì việc quan phải cách, rồi về chịu tang cha. Sau lại đỗ mậu tài được bổ sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.

Năm Quý Mùi (203) là năm thứ 3 đời vua Hiến đế, quan Thứ sử là Trương Tân cùng với quan Thái thú Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà Hán thuận cho. Sau vì trong châu có lắm giặc giã. Sĩ Nhiếp mới tâu xin vua nhà Hán cho mấy anh em làm Thái thú quận Cửu Châu, quận Hợp Phố và quận Nam Hải. Sĩ Nhiếp giữ được đất Giao Châu khỏi loạn và vẫn giữ lệ triều cống như cũ, cho nên vua Hiến đế lại phong cho chức An Viễn tướng quân Long Độ đình hầu.

Sĩ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tôn lên là Sĩ Vương.

Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sĩ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải. Vì rằng từ khi nhà Hán sang cai trị đất Giao Chỉ đến đời Sĩ Nhiếp đã được hơn 300 năm, người Giao Chỉ có người học hành, thi đỗ hiếu liêm, mậu tài. Vậy nói rằng đến ông Sĩ Nhiếp mới có Nho học thì chẳng sai lắm ru. Hoặc giả ông ấy là một người có văn học rồi trong khi làm quan, lo mở mang sự học hành, hay giúp đỡ những kẻ có chữ nghĩa, cho nên về sau mới được cái tiếng làm học tổ ở nước ta, tưởng như thế thì có thể hợp lẽ hơn.

II. ĐỜI TAM QUỐC (220-265)

1. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222-280). Nhà Đông Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra làm 3 nước: Bắc Nguỵ, Tây Thục, Đông Ngô. Đất Giao Châu bấy giờ thuộc về Đông Ngô.

Sĩ Nhiếp ở Giao Châu được 40 năm, tuy thiệt có uy quyền ở cõi Giao Châu, nhưng vẫn theo lệ triều cống nhà Hán, và đến khi nhà Hán mất thì lại triều cống nhà Ngô.

Năm Bính Ngọ (226) là năm Hoàng Vũ thứ 5 nhà Ngô, Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy tự xưng làm Thái thú. Ngô chủ là Tôn Quyền bèn chia đất Giao Châu, từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu, từ Hợp Phố về nam gọi là Giao Châu. Sai Lữ Đại làm Quảng Châu Thứ sử, Đái Lương làm Giao Châu Thứ sử, và sai Trần Thì sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú quận Giao Chỉ.

Bọn Đái Lương và Trần Thì sang đến Hợp Phố thì Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại mới tiến quân sang đánh dẹp, và cho người đến dụ Sĩ Huy ra hàng. Sĩ Huy đem 5 anh em ra hàng, Lữ Đại sai bắt Sĩ Huy đem chém đi, còn mấy anh em thì đem về Ngô triều làm tội.

Ngô chủ lại hợp Quảng Châu và Giao Châu lại làm một, và phong cho Lữ Đại làm Thứ sử. Lữ Đại đem quân đi đánh quận Cửu Chân có công được phong làm Giao Châu mục.

2. TRIỆU ẨU. Năm Mậu Thìn (248) là năm Xích Ô thứ 11 nhà Đông Ngô, Ngô chủ sai Lục Dận sang làm Thứ sử Giao Châu.

Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên là Triệu Ẩu là người ở huyện Nông Cống bấy giờ. Thuở nhỏ, cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu Quốc Đạt, đến độ 20 tuổi gặp người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà ấy là một người có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược. Khi vào ở trong núi chiêu mộ hơn 1.000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Anh thấy thế mới can bà, thì bà bảo rằng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng giữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt trước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta”.

Năm Mậu Thìn (248) vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu Chân, bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi bà ra trận thì cưỡi voi và mặc áo giáp vàng xưng là Nhuỵ kiều tướng quân.

Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân đi đánh, bà chống nhau với nhà Ngô được 5-6 tháng. Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân chạy đến xã Bồ Điền (nay là xã Mỹ Điền, huyện Mỹ Hoá) thì tự tử. Bấy giờ mới 23 tuổi.

Về sau vua Nam đế nhà Tiền Lý, khen là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là “Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Nay ở xã Phú Điền, tỉnh Thanh Hoá còn có đền thờ.

4. NHÀ NGÔ CHIA ĐẤT GIAO CHÂU. Năm Giáp Thân (264) là năm Nguyên hưng nguyên niên, vua nhà Ngô lại lấy đất Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung; lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đấy.

Đất Giao Châu đời bấy giờ cứ loạn lạc mãi, những quan lại nhà Ngô thì thường là người tham tàn, vơ vét của dân, bởi vậy người Giao Châu nổi lên giết quan Thái thú đi rồi về hàng nhà Nguỵ.

Năm Ất Dậu (256) nhà Tấn cướp ngôi nhà Nguỵ, rồi sai quan sang giữ Giao Châu. Nhà Ngô sai Đào Hoàng sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao Châu mục. Năm Canh tý (280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về hàng nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao Châu từ đó thuộc về nhà Tấn.

III. NHÀ TẤN ( 265-420)

1. CHÍNH TRỊ NHÀ TẤN. Nhà Tấn được thiên hạ rồi, thấy nhà Nguỵ vì thế cô mà mất, bèn đại phong cho họ hàng và sai ra trấn các nơi để làm vây cánh cho nhà vua. Nhưng cũng vì lẽ ấy mà các thân vương thường tham danh lợi cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em trong nhà cốt nhục tương tàn, mà ngôi vua thành ra suy nhược.

Thời bấy giờ, ở phía tây bắc có những người nhung địch thấy nhà Tấn có nội loạn, bèn lũ lượt nổi lên chiếm giữ dần dần lấy cả vùng phía bắc sông Trường Giang rồi xưng đế, xưng vương như nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán v.v….cả thảy trước sau đến 16 nước, gọi là loạn Ngũ Hồ(2).

Nhà Tấn làm vua được hơn 50 năm thì mất cả đất ở phía tây bắc. Dòng dõi nhà vua lại dựng nghiệp ở phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến Nghiệp (tức thành Nam Kinh bây giờ) gọi là nhà Đông Tấn.

Đất Giao Châu ta vẫn thuộc nhà Tấn. Những quan lại sang cai trị cũng như quan lại đời nhà Hán, nhà Ngô thỉnh thoảng mới gặp được một vài người nhân từ tử tế, thì dân gian được yên ổn, còn thì là những người tham lam độc ác, làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở. Cũng lắm khi bọn quan lại có những người phản nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn lạc luôn.

2. NƯỚC LÂM ẤP QUẤY NHIỄU GIAO CHÂU. Đất Giao Châu lúc bấy giờ trong thì có quan lại nhũng nhiễu, ngoài thì có người Lâm Ấp vào đánh phá.

Nước Lâm Ấp (sau gọi là Chiêm Thành) ở từ quận Nhật Nam vào cho đến Chân Lạp, nghĩa là ở vào quãng từ tỉnh Quảng Bình, Quảng trị cho đến đất Nam Việt bây giờ. Người Lâm Ấp có lẽ là nòi giống Mã Lai, theo tông giáo và chính trị Ấn Độ. Nước ấy cũng là một nước văn minh và cường thịnh ở phía nam lúc bấy giờ, nhưng không chắc nước ấy khởi đầu thành nước từ lúc nào. Sách “Khâm định Việt sử” chép rằng: Năm Nhâm Dần (102) đời vua Hòa đế nhà Đông Hán, ở phía Nam quận Nhật Nam có huyện Tượng Lâm, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá ở quận Nhật Nam, bởi vậy vua nhà Hán mới đặt quan cai trị ở huyện ấy, để phòng giữ sự rối loạn.

Đến cuối đời nhà Hán có người huyện Tượng Lâm tên là Khu Liên giết huyện lệnh đi, rồi tự xưng làm vua, gọi là nước Lâm Ấp. Dòng dõi Khu Liên thất truyền, bởi vậy cháu ngoại là Phạm Hùng lên nối nghiệp.

Trong đời Tam Quốc, người Lâm Ấp hay sang cướp phá ở quận Nhật Nam và quận Cửu Chân, bởi vậy khi nhà Tấn đã lấy được Đông Ngô rồi, ý muốn giảm bớt quân ở các châu quận, nhưng quan Thứ sử Giao Châu là Đào Hoàng dâng sớ về tâu rằng: “Vua nước Lâm Ấp là Phạm Hùng thông với nước Phù Nam hay sang quấy nhiễu ở đất Nhật Nam, nếu lại giảm bớt quân ở Giao Châu đi, thì sợ quân Lâm Ấp lại sang đánh phá”.

Xem như vậy thì nước Lâm Ấp đã có từ đầu đệ nhị thế kỷ.

Phạm Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất thì người gia nô là Phạm Văn cướp mất ngôi; Phạm Văn truyền cho con là Phạm Phật.

Năm Quý Sửu (353) đời vua Mục đế nhà Đông Tấn, Thứ sử Giao Châu là Nguyễn Phu đánh vua Lâm Ấp là Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn luỹ. Phạm Phật mất, truyền ngôi lại cho con cháu  là Phạm Hồ Đạt. Năm Kỷ Hợi (399) Phạm Hồ Đạt đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật Nam và Cửu Chân rồi lại đi đánh Giao Châu. Bấy giờ có quan Thái thú quận Giao Chỉ là Đỗ Viện đánh đuổi người Lâm Ấp, lấy lại hai quận. Đỗ Viện được phong làm Giao Châu Thứ sử.

Năm Quý Sửu (413) Phạm Hồ Đạt lại đem quân sang phá ở quận Cửu Chân. Khi bấy giờ con Đỗ Viện là Đỗ Tuệ Độ làm Giao Châu Thứ sử đem binh ra đuổi đánh, chém được tướng Lâm Ấp là bọn Phạm Kiện và bắt được hơn 100 người.

Người Lâm Ấp vẫn có tính hay đi cướp phá, cứ năm ba năm lại sang quấy nhiễu ở đất Nhật Nam. Đỗ Tuệ Độ định sang đánh Lâm Ấp để trừ cái hại về sau, đến năm Canh Thân (420) cất binh mã sang đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm Ấp cứ hàng năm cống tiến: voi, vàng, bạc, đồi mồi, vv… Từ đó mới được tạm yên.

Dòng dõi Phạm Hồ Đạt  làm vua được mấy đời lại bị quan Lâm Ấp là Phạm Chư Nông cướp mất ngôi. Phạm Chư Nông truyền cho con là Phạm Dương Mại.

Khi Phạm Dương Mại làm vua nước Lâm Ấp, thì nhà Tấn đã mất rồi, nước Tàu phân Nam triều và Bắc triều. Phạm Dương Mại lại nhân dịp đó mà sang quấy nhiễu ở Giao Châu.

IV. NAM BẮC TRIỀU (420-588)

1. TÌNH THẾ NƯỚC TÀU. Năm Canh Thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Lúc bấy giờ ở phía bắc thì nhà Nguỵ gồm được cả nước Lương, nước yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam triều và Bắc triều.

Bắc triều thì có nhà Nguỵ, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua. Nam triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì.

Lúc bấy giờ ở đất Giao Châu phụ thuộc về Nam triều.

2. VIỆC ĐÁNH LÂM ẤP.  Trong đời nhà Tống về năm Quý Dậu (433) đời vua Văn Đế, vua nước Lâm Ấp là Phạm Dương Mại thấy nước Tàu loạn lạc, bèn sai sứ sang cống nhà Tống và xin lĩnh đất Giao Châu để cai trị. Nhưng vua nhà Tống không cho.

Từ đó nước Lâm Ấp lại sang cướp phá ở mạn Nhật Nam. Vua nhà Tống bèn sai quan Thứ sử là Đàn Hoà Chi và Tông Xác làm phó tướng đem binh sang đánh Lâm Ấp. Phạm Dương Mại đem quân ra chống cự.

Đàn Hoà Chi và Tông Xác tiến quân chém được tướng, phá được thành, quân Lâm Ấp vỡ tan, Phạm Dương Mại cùng với con chạy thoát được. Đàn Hoà Chi vào Lâm Ấp lấy được vàng bạc châu báu rất nhiều. Sử chép rằng Đàn Hoà Chi lấy được một cái tượng bằng vàng mấy người ôm không xuể, đem nấu đúc được hơn 10 vạn cân. Từ đấy người Tàu biết Lâm Ấp có nhiều của, cứ chực sang lấy. Đàn Hoà Chi cũng vì của ấy mà bị gièm pha, phải cách chức đuổi về.

3. SỰ BIẾN LOẠN Ở ĐẤT GIAO CHÂU.  Năm Kỷ Mùi (479) nhà Tống mất ngôi, nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.

Trong đời Nam Bắc triều đất Giao Châu không được mấy khi yên ổn, vì quan Tàu sang cai trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn lạc, cũng muốn tìm cách để độc lập, bởi vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.

Đời nhà Lương lại sai Tiêu Tư sang làm Thứ sử Giao Châu. Tiêu Tư là một người tàn bạo, làm cho lòng người ai cũng oán giận. Bởi vậy ông Lý Bôn mới có cơ hội mà nổi lên, lập ra nhà Tiền Lý.

Chương IV

NHÀ TIỀN LÝ (544-602)


1. LÝ NAM ĐẾ (544-548). Năm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở huyện Thái Bình(3) có một người tên là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy nước mình trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long Biên.

Lý Bôn có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ đã là bảy đời, thành ra người bản xứ. Khi chiếm giữ được đất Giao Châu rồi, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp lâu dài. Qua năm Quý Hợi (543) quân Lâm Ấp lại sang phá quận Nhật Nam, Lý Bôn sai tướng là Phạm Tu vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), người Lâm Ấp thua chạy về nước.

Năm Giáp Tý (544) đời nhà Lương bên Tàu, ông Lý Bôn tự xưng là Nam Việt đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn và Phạm Tu làm tướng võ.

Năm Ất Sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu sang làm Thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân sang đánh Nam Việt. Lý Nam Đế thua phải bỏ Long Biên chạy về giữ thành Gia Ninh (huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên). Trần Bá Tiên đem quân lên vây thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương, tức là đất Phong Châu cũ thuộc tỉnh Vĩnh Yên bây giờ.

Quân nhà Lương lại tiến lên đuổi đánh, Lý Nam Đế thấy thế mình yếu, chống không nổi, mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hoá) để đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt (?) lại thua. Lý Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Liêu rồi trở về Khuất Liêu.

Triệu Quang Phục là con quan Thái phó Triệu Túc ngươi ở Châu Diên (Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên) theo cha giúp Lý Nam Đế lập nhiều chiến công, nay đem quân chống cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về Dạ Trạch (bây giờ thuộc phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Dạ Trạch là chỗ đầm lầy, xung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu Quang Phục vào ở đấy ngày nấp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc mộc ra đánh quân của Trần Bá Tiên, cướp lấy lương thực về nuôi quân sĩ. Trần Bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương.

2. TRIỆU VIỆT VƯƠNG (549-571). Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đã sắp hết lương thực, mà mãi vẫn không phá được quân Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá Tiên về để người tỳ tướng là Dương Sàn ở lại chống cự với Triệu Quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long Biên.

Khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Liêu thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với người họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào quận Cửu Chân, rồi bị quân nhà Lương đuổi đánh chạy sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương, quốc hiệu là Dã Năng.

Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hoà. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.

Lý Phật Tử đóng ở Ô Diên (nay ở vào làng Đại Mỗ thuộc huyện Từ Liêm). Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quân Thần làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm). Triệu Việt Vương lại gả con gái cho Phật Tử để tỏ tình hoà hiếu với nhau. Nhưng Phật tử vẫn có ý muốn thôn tính, bởi vậy bề ngoài tuy là hoà hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa soạn để đánh lấy Long Biên.

Năm Tân Mão (571), Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương, Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại Nha (nay ở huyện Đại An, tỉnh Nam Định), nhảy xuống sông tự tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại Nha. Nay còn có đền thờ ở làng Độc Bộ, gần huyện Đại An.

3. HẬU LÝ NAM ĐẾ ( 571- 602). Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), sai Lý Đại Quyền giữ Long Biên và Lý Phổ Đỉnh giữ Ô Diên.

Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam Việt thì vua Văn Đế nhà Tuỳ đã gồm cả Nam Bắc, nhất thống nước Tàu. Đến năm Nhâm Tuất (602) vua nhà Tuỳ sai tướng là Lưu Phương đem quân 27 doanh sang đánh Nam Việt.

Lưu Phương sai người lấy lẽ hoạ phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam Đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.

Từ đấy đất Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị vừa 336 năm nữa.

____________________

Chú thích:

(1) Về cuối đời Đông Hán lại dời về Long Biên.

(2) Ngũ Hồ là 5 rợ: Hung nô và rợ Yết (chủng loại Mông Cổ), rợ Tiên Ti (chủng loại Mãn Châu), rợ Chi và rợ Khương (chủng loại Tây Tạng).

(3) Cứ theo sách “Khâm định Việt sử” thì huyện Thái Bình thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng mà không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình.

(Xem tiếp kỳ sau)