Nguyễn Như Đổ, nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất

Vào đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Đại Việt vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Minh 10 năm, vì vậy việc cấp bách của nhà Lê trong buổi đầu xây dựng lại đất nước là phải chọn được hiền tài. Năm 1429, triều đình tổ chức thi Hoành từ; năm 1431 thi Minh kinh.

Cùng với ban chiếu cầu hiền, vua Lê Thái Tổ lại quy định các quan từ tam phẩm trở lên phải tiến cử những người tài vì lý do nào đó còn ở nơi thôn cùng xóm vắng. Những biện pháp trên đã làm nức lòng kẻ sĩ.

Tại kỳ thi Hội đầu tiên thời Hậu Lê (năm Đại Bảo thứ ba, 1442) Nguyễn Như Đổ (1424 - 1526), tên chữ Mạnh An, tên hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đỗ đầu, thi Đình đậu Bảng nhãn, khi vừa 19 tuổi. Khi Nguyễn Như Đổ vừa thi Đình xong, ông liền được cử làm Soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, năm 1449, thăng Trực học sĩ. Nhà nước phong kiến lấy con đường đi sứ gian truân làm nơi rèn luyện và thử thách các sĩ phu. Vào mùa thu năm Kỷ Mão (1459), ông được cử đi sứ lần thứ ba sang Minh. Cũng như hai lần trước (1443 và 1449), trong cống phẩm lần này có cả ngọc trai. Nguyễn Như Đổ hiểu rõ nỗi thống khổ của người dân Đại Việt phải lặn tìm nơi biển sâu thứ của quý này, đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo: “Mò ngọc trai thì mặc giao long mà giòng lưng lặn biển”. Ông đã cùng Lê Cảnh Huy, Hoàng Thanh và Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư biện bạch với vua tôi nhà Minh miễn cho cống phẩm này.



 Tên tuổi Nguyễn Như Đổ được vinh danh trên bia tiến sĩ
đặt tại Văn Miếu


Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), Hàn lâm học sĩ Tiền Phổ nhà Minh sang sách phong. Tiền Phổ là người thích tranh luận và hay bắt bẻ. Nguyễn Như Đổ được vua Lê Thánh Tông giao trọng trách tiếp. Trong 12 ngày ở Đại Việt, sứ thần này đã khâm phục tài cao học rộng cũng như tinh thần trung quân ái quốc của Nguyễn Như Đổ.

Trong 16 năm, trải ba lần đi sứ và giữ một số chức quan ở trong triều, ngoài nội, Nguyễn Như Đổ đã trưởng thành. Năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi, vị vua tài giỏi rất trọng hiền tài, đã chọn ông làm Lại bộ Thượng thư, giữ việc cất nhắc, tuyển bổ các quan. Việc hệ trọng và chẳng đơn giản chút nào. Tuyển bổ đúng thì được vua khen, tuyển bổ sai thì bị biếm chức. Những việc ông làm góp phần tích cực chỉnh đốn lại bộ máy hành chính từ nội triều đến các làng xã. Cùng với chức Kiêm thừa chỉ Học sĩ Viện Hàn lâm (người đứng đầu của viện), ông còn được giao chức Tả ty sảnh môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, tiến lên kiêm Thượng thư Bộ Lễ, Đại học sĩ điện Cẩn Đức, tân khách của Thái tử.

Như vậy, trong những năm đầu của thời Lê Thánh Tông, Nguyễn Như Đổ đã giữ cả hai bộ quan trọng nhất của triều đình. Trong 38 năm Đại Việt được sống trong hòa bình, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đều phát triển ở mức cao. Các đời vua sau đều lấy đó làm mẫu mực noi theo. Trong thành tựu chung này, Nguyễn Như Đổ đã có đóng góp đáng kể. Muốn đất nước hưng thịnh, không phải chỉ có vua hiền mà còn cần phải có tôi giỏi.

Ngoài những cống hiến xuất sắc trên các mặt chính trị, ngoại giao, Nguyễn Như Đổ còn là nhà giáo dục có nhiều đóng góp. Là vị quan trẻ, có học vấn uyên thâm, ông được cử vào Điện Cẩn Đức dạy Thái tử. Năm Quý Mùi 1463, ông được cử làm độc quyển trong kỳ thi đình. Đó là một trong hai kỳ thi đông vui nhất của thời Lê Thánh Tông. Sĩ tử khắp nước về kinh đô tới 4.000 người. Kỳ thi này lấy Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên. Sau đó, ông còn được cử làm Đề điệu (Chánh chủ khảo) trong hai kỳ thi Đình năm Bính Tuất 1466 và Kỷ Sửu 1469.

Năm 1486, cùng với việc sửa chữa lại Văn Miếu, Nguyễn Như Đổ nhận chức Tế tửu Quốc Tử Giám trong 10 năm mới về hưu trí. Là hiệu trưởng trường đại học của quốc gia, ông có dịp chăm lo việc học cho những trò ưu tú trong cả nước. Sử cũ còn ghi một số cải cách của ông trong tuyển lựa khảo xét học trò được Lê Thánh Tông ưng thuận.

Nguyễn Như Đổ qua đời đã gần 500 năm, nhưng đời các vua sau đều nhắc nhở đến ông. Lê Quý Đôn, Lê Cao Lãng, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp… có những công trình viết về ông. Đặc biệt, khi soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí (đầu thế kỷ XIX), trong phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú đã đánh giá Nguyễn Như Đổ là một trong 18 người có công lao phò tá tài đức thời Lê sơ: “Ông lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn thì làm quan to lên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều, cũng là một sự ít có trong hoạn đồ”.

Trong sách Danh nhân Hà Nội, Trần Văn Giáp viết: “Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta thấy ông vừa là nhà chính trị, nhà ngoại giao vừa là nhà quân sự, nhà giáo dục có một tài năng hiếm có. Ngoài ra, ông còn là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc”. Trong đời Thái Hòa, ông vâng mệnh soạn bài văn bia miếu Lê Khôi, tướng giỏi và là cháu của Lê Thái Tổ đặt ở núi Nam Giới (nay thuộc địa giới hai huyện Can Lộc và Thạch Hà, Hà Tĩnh). Theo Phan Huy Chú, ông có tập thơ lưu truyền, nay chỉ còn 6 bài chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, và một bài Biểu tạ ơn chép trong Hoàng các di văn hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán - Nôm.

Nhận xét về thơ văn ông, Phan Huy Chú viết: “Như bảng nhãn họ Nguyễn ở Lan Châu là người đỗ khôi nguyên lúc mới khai quốc, văn chương có tiếng ở đời”. Trần Văn Giáp nhận xét: “Trú ở phía nam thành Thăng Long, ông là một nhà thơ đặc biệt Hà Nội; thơ của ông thanh đạm mà phóng khoáng, tả cảnh sắc rất hoạt động. Câu cuối bài Thành nam viên cư nhắc người ta nhớ đến câu “Triều hồi nhật nhật điển xuân y” (Chầu về ngày ngày cố áo xuân) của Đỗ Phủ. Bài Thư trai xuân mộ chứng tỏ cái ung dung, thích thảng của một người có đạo đức cao quý, tự tin ở mình, coi thường danh lợi. Bài thơ trên có cái tài hoa của con người Hà Nội xưa, đóng góp vào kho tàng văn học viết về Thăng Long - Hà Nội”.

Ngày nay, nhớ về Nguyễn Như Đổ, chúng ta nhớ một con người tài ba đức độ. Ông làm quan to, có 112 mẫu điền lộc, được hưởng nhiều đặc ân của triều đình mà hằng ngày vẫn sống một cuộc đời thanh bần:

Ngày ngày vui thú an bần
Bạn cùng hoa trúc mỗi lần chầu tan.

(Trích Thành nam viên cư)

Đối với quê hương Đại Lan, ông dành cho dân làng nhiều nghĩa nặng tình sâu. Tại văn tế đình làng còn chép một đôi câu đối nói về tài năng của ông:

Trợ thần bút điểm chu đầu, tơn chù quả tam khôi cập đệ,
Phát thiên quang, trình bạch nhĩ, cung giai vi lục bộ thượng thư.

Chính vì có đạo lý nên ông đã để lại trong tâm khảm người dân niềm kính trọng sâu xa. Trong lịch sử khoa cử Việt Nam, tên tuổi Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ được ghi trong sách Lê triều đăng khoa lục. Năm 1484, triều Lê cho dựng loạt bia đá ghi danh các tiến sĩ đầu tiên đặt tại Văn Miếu. Trên tấm bia khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442), khoa thi mở đầu của thời Lê sơ, Nguyễn Như Đổ đứng tên thứ hai, sau Trạng nguyên Nguyễn Trực. Tấm bia này hiện được đặt tại đình bia ở bên phải giếng Thiên Quang trong khu di tích Văn Miếu Quốc - Tử Giám. Tại làng Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, có ngôi đền thờ Đức thánh Chu, do Phạm Sư Mạnh và Lê Bá Quát dựng trên nền trường cũ của Chu Văn An từ đời Trần. Hậu cung có 63 bài vị thờ những người đỗ đại khoa của huyện, bài vị của Nguyễn Như Đổ đặt ở vị trí thứ hai, sau bài vị của Chu Văn An. Tại làng Đại Lan Châu, tên tuổi ông ghi trong Bản xã tiên hiền và có tên trong văn tế đọc tại đình làng vào sáng mồng một Tết Nguyên đán và lễ khai hạ mồng 6 tháng Giêng. Ngoài ra, trong bản văn tế của làng Trung Quan Châu (nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm), và văn tế hàng tổng: Đại Quan Châu (nay là huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên); tổng Vạn Phúc Châu (nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội) đều có nêu công danh Nguyễn Như Đổ, vị đỗ khai khoa của làng Đại Lan. Tại làng Trung Quan Châu (vốn từ làng Đại Lan Châu tách ra) hiện có đền thờ Nguyễn Như Đổ, và dân làng này còn kể một số giai thoại về ông.

Ngày 2/2/1994, tại Kỳ họp thứ 19 HĐND TP Hà Nội khóa X đã ra nghị quyết đổi phố 225 ở bên cạnh Văn Miếu thành phố Nguyễn Như Đổ.
 

Trần Văn Mỹ (HNM)