Thăm động Từ Thức

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở, động nằm trên địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trong khoảng thời gian chiến tranh với nước Mỹ, động này bỏ hoang không có ai lui tới, lơ thơ chút cỏ hoang mọc trước cửa động. Điều đặc biệt nhất ở nơi này không chỉ bởi vẻ đẹp của thạch nhũ mà còn bởi câu chuyện tình lãnh mạn được xây đắp từ trí tưởng tượng vô cùng phong phú giữa người và tiên: chàng Từ Thức và nàng tiên Giáng Hương.

Chuyện kể rằng, Từ Thức vốn người huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá) làm tri huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nhân đi chơi hội đã cởi áo gấm giúp một cô gái xinh đẹp gặp tình huống éo le. Thời gian sau chàng từ quan, tìm thú vui nhàn tản. Một lần ra cửa biển Thần Phù, Từ Thức đi qua núi và thấy một chiếc động, được bà chủ gả cho Giáng Hương, chính là người chàng đã cứu thuở nào.


 
Cửa động Từ Thức


Sống với nhau được một năm, dù thuận hoà, êm ấm, Từ Thức chợt nhớ nhà, xin được về thăm. Cảm thông nỗi niềm của chồng, Giáng Hương sắm xe và gài sẵn phong thư kín nói lời ly biệt. Khi đến quê, tất cả đều đổi thay, Từ Thức hỏi một cụ già râu tóc bạc phơ thì mới biết đó là cháu nội của mình. Chàng đã đi quá lâu. Từ Thức muốn trở lại cõi tiên với vợ, nhưng chẳng còn dịp may … trước cửa động Từ Thức, dây leo chằng chịt đan kết thành những chiếc võng.

Hiện, động Từ Thức có một miếu nhỏ gọi là miếu Sơn Thần. Ngay trên cửa động là vách đá được tạc bài thơ đề của Lê Quý Đôn khi viếng thăm vào thế kỷ 17.

Suốt chiều sâu của động, có rất nhiều nhũ đá tạo thành những hình thù độc đáo và được gắn liền với truyền thuyết về Từ Thức và Giáng Hương. Động chính gồm có 2 phần, phần ngoài rộng, trần động hình vòng cung như một chiếc bát úp khổng lồ. Phía dưới vòng cung đó có một nhũ đá toả xuống trông như một trái đào tiên, nên động còn được gọi là động Bích Đào. Dưới là nền đá phẳng, nhẵn, là vết tích đền thờ Từ Thức còn lưu lại đến hôm nay. Sau đó là đụn nhũ thạch lấp lánh được ví như những kho chứa khác nhau: kho tiền là những chỗ thạch nhũ xanh nổi hình tròn từng lớp chồng lên nhau; kho vàng là những thỏi đá óng ánh mầu vàng; kho muối là một quần thể thạch nhũ bé, trắng toát; kho gạo lại hấp dẫn hơn bởi những hòn đá mịn được gắn chặt, đều màu nâu bạc.


 
Thạch nhũ trong động. Ảnh: Camnangdulich

Vào phần trong, một cổ tam sinh có đủ trâu, dê, lợn, một mâm cỗ... tương đối giống như thật, một mâm ngũ quả... bằng đá được thiên nhiên bày sẵn từ muôn đời nay. Càng vào sâu, lòng động càng rộng ra, với nhiều dấu tích về tình yêu của Giáng Hương và Từ Thức như: buồng tắm của Giáng Hương và thư phòng của Từ Thức bằng đá; những bông hoa, những quả đào tiên, vầng trăng và có cả những đôi chim thạch nhũ. Những thanh đá thiên cầm gõ vào sẽ phát ra những thanh âm khác nhau được gọi là dàn chiêng trống.

Đi sâu vào trong, có 2 dấu chân người in vào đá từ bao giờ, tương truyền là dấu chân Từ Thức. Một vài nụ đá và một vài đường nét trên một mặt đá phẳng tạo thành bàn cờ tiên. Đôi gò bồng đảo đầy quyến rũ bên một vũng nước trong suốt có thể nhìn thấy những hòn đá dưới đáy, là giếng mà tiên nữ Giáng Hương từng tắm với nụ cười làm đắm say kẻ phàm trần. Một dải đá màu lục lốm đốm, cùng một dải đá có những hình thù ếch nhái, là ao bèo trong sự tưởng nhớ quê hương của chàng thư sinh Từ Thức. Sau cảnh này là một ngã rẽ, một ngã theo tương truyền là đường lên cõi tiên của Từ Thức. Tại đây có quán nghỉ chân bằng đá mà chàng đã từng nghỉ suốt dọc hành trình và còn đó những mắc treo áo, treo mũ bằng đá. Bên cạnh đường lên tiên là một ngã rẽ hỏm sâu theo đường xoáy ốc vẫn bí ẩn muôn đời nay, nhân dân quen gọi là đường xuống Địa ngục. Sau lưng động là núi Thần Phù, hang Dơi...

Chính bởi tích hay, động đẹp mà nơi đây từ lâu đã trở thành điểm đến không thể bỏ qua của nhiều tao nhân, mặc khách.

(Theo Đất Việt)