Làng Hoàng Đan - Xưa & Nay

Bia Hoàng Thái Hậu. 

Vậy mà, đã 30 năm rồi. Cuộc sống thật bận rộn, tôi ít có dịp về thăm quê! Ở xứ ngàn hoa Đà Lạt, tôi vẫn nhớ quê da diết. Đã bao lần nghe mẹ kể chuyện làng, hấp dẫn kỳ lạ. Hồi còn ở Làng, mẹ hay đi chùa, vào đền bà Hoàng, đi cấy trú mưa trong lăng Hoàng hậu. Bao nhiêu trận lụt lút cả làng, mà lăng bà không ngập bao giờ.

Tương truyền, dưới lăng có 100 quan tài trong quan ngoài quách, chỉ một quan tài mai táng bà, còn 99 cái khác chôn cất gấm vóc châu báu. Đã có kẻ đào trộm lăng, sau phát điên, ngày nào cũng đến lăng quỳ lạy “Con có tội, xin Hoàng hậu tha mạng”. Tôi sinh ra và lớn lên ở làng 18 năm, rồi thoát ly, đã từng vào lăng và đền thờ Hoàng Thái hậu. Tôi tin lời mẹ kể là sự thật. Là người cẩn trọng “Nói có sách, mách có chứng”. Nhiều năm nay, tôi đã nhờ người thân ngoài quê tìm - dịch gia phả, chiếu chỉ, văn bia để hiểu rõ về bà Hoàng, nhưng chưa kết quả. Rất may, năm ngoái có thầy dạy sử ở Đại học Đà Lạt tặng file cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư”. Tôi đọc ngấu nghiến và rất mừng vui tìm ra thân thế, công đức của bà.

Sử sách ghi rõ, một lần vua ngự thuyền Rồng xuôi dòng sông Đáy, khi qua một dải đất có hình dáng lạ kỳ ở xã Hoàng Đan, xứ Sơn Nam hạ (nay là làng Hoàng Đan, xã Yên Hưng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), vua truyền dừng lại để hỏi, người dân ở đây cho biết nơi họ sinh sống có tên gọi là xóm Thoi, vì dải đất ấy có hình dáng giống cái thoi dệt vải. Khi ấy, vua bỗng nghe thấy tiếng hát trong trẻo, thánh thót từ xa vang đến, đưa tầm mắt tìm kiếm, Lê Thần Tông rất ngạc nhiên thấy một cô gái không giống như mọi người đến lạy phục ra mắt hoàng đế, mà lại điềm nhiên như không, bàn tay thoăn thoắt dùng liềm cắt cỏ bên bờ sông, vừa làm vừa hát.

Điều đặc biệt là trên đầu cô gái lơ lửng một đám mây xanh có hình như chiếc lọng. Cho đó là chuyện khác thường, Lê Thần Tông truyền gọi cô gái cắt cỏ đến. Tuy là con gái thôn quê, nhưng dung nhan diễm lệ, cử chỉ nhẹ nhàng, tự tin không hề e ngại, ứng đáp thông minh, trôi chảy khiến vua rất mến, bèn cho rước lên thuyền rồng, đưa về cung làm phi. Cô gái đó tên gọi là Nguyễn Thị Bạch Ngọc. Vua còn truyền chỉ đổi tên quê hương mỹ nữ từ xóm Thoi thành thôn Thanh Vân (mây xanh) để đánh dấu kỷ niệm mối duyên tình cờ của mình. Vào cung được hơn một năm, Quý phi Nguyễn Thị Bạch Ngọc có mang, đến giữa năm Canh Ngọ (1630) thì sinh hạ một Hoàng tử trưởng đặt tên là Lê Duy Hựu. Cũng thời gian này, chúa Trịnh ép vua lấy con gái mình là Trịnh Thị Ngọc Trúc để lập làm Hoàng hậu (cho dù trước đó bà đã lấy chú họ của Lê Thần Tông, có 4 người con với ông này). Vì là Hoàng hậu nên Trịnh Thị Ngọc Trúc trở thành mẹ đích của Lê Duy Hựu, còn Quý phi Nguyễn Thị Bạch Ngọc chỉ là mẹ sinh. Có con trai nối dõi, Lê Thần Tông rất vui mừng ban chiếu lập làm Hoàng Thái tử, đến tháng 10 năm Quý Mùi (1643) thì truyền ngôi cho Lê Duy Hựu để làm Thái Thượng hoàng. Thái tử kế vị ngai vàng, đặt niên hiệu Phúc Thái, thường gọi Lê Chân Tông, làm vua được 7 năm (1643 - 1649) thì mất.

 Bia chiến thắng Hoàng Đan.

Sử sách chép rằng: “Vua Lê Duy Hựu, con trưởng của Lê Thần Tông, 13 tuổi được truyền ngôi, ở ngôi 7 năm, thọ 20 tuổi, chôn ở lăng Hoa Phố. Vua tính trời trầm tĩnh, khoan dung phúc hậu, có đức của bậc Đế vương”. Sau khi Lê Chân Tông mất, Lê Thần Tông trở lại làm vua lần thứ hai, tại vị đến tháng 9 năm Nhâm Dần (1662) thì băng hà, người con thứ là Lê Duy Vũ do cung phi Phạm Thị Ngọc Hậu sinh ra, được đưa lên làm vua. Mấy năm sau đó, Quý phi Nguyễn Thị Bạch Ngọc qua đời, triều đình cho rước linh cữu bà đưa về chôn cất tại quê nhà.

Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng 5 năm Nhâm Tuất (1682), triều đình truy tôn Quý phi Nguyễn Thị Bạch Ngọc làm Minh Thục Hoàng Thái hậu. Đến năm Giáp Tý (1684), vua Lê Hy Tông dâng thêm tôn hiệu cho bà là Minh Thục, Trinh Tĩnh, Thuần hòa Hoàng Thái hậu, sau đó sai người xây dựng điện Hoàng Long ở thôn Thanh Vân để thờ phụng.

Đến nay, người dân vẫn quen gọi là Đền bà Hoàng Thái hậu. Tấm bia “Hoàng Long điện bi ký tịnh minh” dựng ở đền thờ Nguyễn Quý phi tại thôn Thanh Vân có đoạn viết: “Thôn Thanh Vân, nơi sinh ra Nguyễn Thị Phương Dung công chúa, húy Bạch Ngọc, tuổi Giáp Thìn, là người trăm nết vẹn toàn, bao quát muôn khéo, tưởng hay có đủ Tứ đức, cực khéo cực đẹp. Khá lấy sánh với Cửu trùng rất quý rất tôn, tác hợp bởi trời, lạ lùng kỳ ngộ, phụng sự Thần Tông Uyên hoàng đế…”. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, viết: “Vua Lê Thần Tông là bậc vua giỏi. Những người vợ của vua đều sống rất hòa thuận. Ngay cả khi chết, sáu người vợ cùng bày tỏ ý nguyện ở bên nhau mãi mãi”.

Tương truyền, sáu pho tượng nhập thần ở chùa Mật Sơn - Thanh Hóa, là do sáu bà cùng bỏ tiền công đức ra làm. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, hiếm có vị vua nào được sử sách nhắc đến chuyện vợ con, lạ kỳ như vậy. Vua Lê Thần Tông có 6 người vợ, 10 người con, 4 con trai đều kế nhau lên ngôi Hoàng đế. Ngày 22 tháng 9 năm 1662, vua Lê Thần Tông băng hà, hưởng thọ 56 tuổi, làm vua 2 lần tổng cộng 37 năm.

Hơn 400 năm hình thành phát triển, làng Hoàng Đan xưa & nay có hàng ngàn hộ dân bám trụ giữ làng, giữ đất, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, hàng trăm hộ di cư khắp mọi miền Tổ quốc và hàng chục hộ ra nước ngoài xây quê mới. Làng tôi “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, đã từng có hàng trăm người tham gia kháng chiến, hàng chục người là liệt sĩ, có Mẹ Việt Nam anh hùng, có người là đại biểu Quốc hội, có nhiều dũng sĩ, kỹ sư, bác sĩ, nhà báo, doanh nhân, công nhân, nông dân... tiên tiến.

Dù ở bất kỳ nơi đâu, dân làng Hoàng Đan cũng đều hiếu học, cần cù, vượt khó, nghĩa tình, thành đạt. Hiện làng tôi có 5 xóm: An Phúc, An Khánh, An Phận, Thanh Vân, Quang Phúc ngày càng trù phú. Lòng tôi quặn đau khi biết, nhà văn Nam Cao (với tác phẩm Chí Phèo nổi tiếng) bị Pháp bắn chết tại bến đò Hoàng Đan năm 1951. Nhưng rất đỗi tự hào, xã Yên Hưng đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT thời chống Pháp, với trận thắng oanh liệt phá tan đồn bốt Pháp ở làng Hoàng Đan (trấn giữ cầu Gián Khẩu và ngã ba sông Đáy - sông Hoàng Long) năm 1953.

(Báo Du lịch)