Khoai lang ngày cũ

Ngày nhỏ chăn bò, tôi mê cái vụ đi “săn” khoai lang nứt mộng (nẩy mầm). Những củ khoai đào sót mươi bữa nửa tháng sau sẽ “tự tố cáo” mình bằng cái mầm đo đỏ phớt xanh rụt rè xuyên đất chồi lên. Nhanh mắt phát hiện, moi xuống là sẽ tóm ngay được củ khoai. Khoai lang ăn sống không tệ: vị bùi bùi, ngòn ngọt. Bụng dạ trẻ chăn bò xưa khỏe lắm, vài củ khoai lang sống mỗi bữa ăn chơi thì nhằm nhò gì. May mắn vớ được củ khoai to thì đem lùi trong bếp tro. Khoai lang lùi thơm ngon hết chê. Củ khoai lùi bằng gùi khoai nấu, anh Năm tôi hay ngâm nga vậy…

Ba vỡ hoang miếng đất thổ (đất cát pha) bên sông, đất xốp mùn, trồng khoai củ tốt bời bời. Khoai rẻ, mẹ tiếc không bán, cộ về nhà đổ đầy nhà. Chưa đủ chỗ, khoai còn tràn ra bò lổm ngổm gậm giường, vun đống góc nhà. Chiến dịch “ăn khoai trừ cơm” của mẹ chính thức mở màn. Mẹ lý luận, gọn hơ: khoai củ thì cũng… bột chớ gì; lúa bán có tiền sao không bán bớt lúa, để khoai ăn thay? Nói là làm, “bản trường ca… khoai lang” trong nhà tôi bắt đầu vang lên. Khoai luộc, khoai nướng, khoai xắt lát nấu canh và v.v. Đã xa rồi cái thời tìm “săn” hay ăn khoai lang mộng. Đi học về đến cửa nghe mùi khoai chỉ muốn… bỏ chạy. “Hãi” nhất là món khoai ghé (độn) cơm. Mở vung nồi, thấy bóng mấy lát khoai là mắt đứa nào cũng ầng ậng nước, chờ mẹ quay đi để lén… gắp bỏ xuống mâm. Mẹ quay lại, chép miệng, lắc đầu, lại lụi hụi “cõng” khoai bỏ hết vô chén mẹ.

Dứt mùa, khoai cạn dần xem như “thoát nạn”. Giờ chỉ còn mớ khoai xắt lát phơi khô mẹ gói cất kỹ trong bao. Chờ cho nguôi ngoai cái “nỗi sợ” khoai lang, mẹ mới đem khoai khô ra rửa sạch, hầm đường đen. Lạ kỳ chưa, món khoai khô hầm chín rục thơm thơm quyện cùng hương vị đường mật mía ngọt ngào bỗng trở nên ngon lạ. Tôi nổi danh “con sâu đường”, mê ăn ngọt nên ưa món này lắm lắm. Còn nhớ có lần tham ăn, đợi mẹ hầm khoai, tôi lén… xúc một chén đầy đem giấu biến trong tủ sổ sách giấy tờ của ba. Giấu xong quên luôn. Tới lúc ba phát hiện thì, ôi thôi, cả đống giấy tờ đã bị lũ kiến/gián chui ăn vụng khoai tiện đà cắn nát. Ba “nộ khí xung thiên”, vác roi hằm hè điều tra sắp lượt. Tôi cũng vờ lăng xăng theo ba, quát tháo con Út khiến nó khóc mếu.

Ký ức khoai lang giờ thăm thẳm lùi xa. Tôi lớn, ba già, con Út cũng đã từ lâu lấy chồng xa xứ. Không còn ai ăn khoai ghé thay cơm, nhưng “duyên nợ” của tôi với món khoai lang thì chưa sang hồi kết. Giờ tôi đâm thích khoai lang. Tuần nào đi chợ cũng phải tìm mua cho được khoai lang. Mẹ cười: báo ứng đó con, cho bù cái lúc mày nghe mùi khoai lang là khóc.

Y Nguyên (Baoquangnam)